Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh doanh. Hiển thị tất cả bài đăng
7 giai đoạn của quá trình kinh doanh
Những ai lao vào con đường kinh doanh, nuôi chí trở thành ông chủ doanh nghiệp nên biết rằng từ ngày đầu thành lập cho đến lúc tan rã trong kinh doanh họ sẽ phải trải qua các giai đoạn khác nhau. Trên thực tế tiến trình của con đường kinh doanh gồm có 7 giai đoạn. Nắm được 7 giai đoạn đó và biết cách lên kế hoạch sắp xếp cho chúng là điều hết sức quan trọng để đạt được những bước thành công trong kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.
1. Giai đoạn "gieo hạt"
Đó là giai đoạn mà việc kinh doanh chỉ tồn tại trong suy nghĩ hay nói cách khác đó chỉ là ý tưởng, ý đồ kinh doanh. Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn "khai sinh" doanh nghiệp mới. Hầu hết các công ty trong giai đoạn này sẽ cần vượt qua thử thách: chấp nhận thị trường và theo đuổi 1 thời cơ thích hợp riêng biệt. Trong giai đoạn này chủ các doanh nghiệp nên cẩn trọng, không nên rải các nguồn tài chính quá mỏng.Điểm trọng tâm của giai đoạn này làm sao chọn thời cơ kinh doanh phù hợp với kỹ năng, kinh nghiệm và niềm đam mê để khởi nghiệp. Và cũng đừng quên những điểm mấu chốt quan trọng khác đó là: quyết định chọn cơ cấu quyền sở hữu doanh nghiệp, tìm cố vấn chuyên nghiệp, và lập kế hoạch kinh doanh.
Những nguồn tài chính cho việc phát triển trong giai đoạn này có thể rất khó khăn để định vị. Bởi lẽ ở giai đoạn này, doanh nghiệp sẽ phải tự tìm kiếm thị trường, khách hàng cho chính mình. Doanh nghiệp có thể sẽ phải dựa vào nguồn vốn vay mượn từ chủ sở hữu, bạn bè, gia đình, hay các nhà đầu tư cá nhân. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể sử dụng vốn từ nguồn khác như: nhà cung cấp, khách hàng, các khoản viện trợ của chính phủ.
2. Giai đoạn khởi động
Doanh nghiệp vừa được hình thành và tồn tại một cách hợp pháp. Các sản phẩm và dịch vụ hiện đã đi vào sản xuất và đã có những khách hàng đầu tiên. Trong giai đoạn kinh doanh này, những đòi hỏi về vốn và thời gian tìm kiếm thị trường được đánh giá khá cao. Và thử thách căn bản ở đây đó là không được để những khoản tiền dù là nhỏ nhất tuột khỏi tay. Chủ doanh nghiệp phải học cách khảo sát "tính thực tế" những nhu cầu từ phía khách hàng có thể mang lại lợi nhuận và chắc chắn rằng việc kinh doanh đang đi đúng hướng.Giai đoạn khởi động đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập cơ sở khách hàng và thị trường cùng với nguồn ngân lưu được kiểm soát và theo dõi. Nguồn vốn hỗ trợ cho sự phát triển trong giai đoạn này có thể kêu gọi từ người sở hữu, bạn bè, gia đình, nhà cung cấp, khách hàng, đi vay hay các khoản viện trợ.
3. Giai đoạn phát triển
Ở giai đoạn này, doanh nghiệp đã trải qua "những năm chập chững biết đi" và nay phát triển thành một "đứa trẻ" thực sự. Các khoản doanh thu và khách hàng đang tăng lên điều đó đồng nghĩa với sự xuất hiện của những thời cơ mới cũng như những thách thức mới. Lợi nhuận sinh trưởng kéo theo tính cạnh tranh cũng tăng. Thử thách khốc liệt nhất trong giai đoạn này mà công ty phải đối mặt với đó chính là thực đơn không đổi các vấn đề đưa ra để giành lấy thời cơ và các nguồn tài chính. Để làm được điều đó đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý hiệu quả cao và có thể lên kế hoạch kinh doanh mới. Học hỏi để đào tạo nhân viên như thế nào cũng như việc quản lý và nghệ thuật giao phó, uỷ thác là chìa khoá cho sự thành công của giai đoạn này.Chu trình nhịp sống tăng trưởng của các doanh nghiệp dựa trên sự vận hành của chính doanh nghiệp ấy theo một cách thức chuẩn hơn nhằm đáp ứng với khối lượng bán hàng và lượng khách hàng ngày càng tăng. Do đó doanh nghiệp cần áp dụng những hệ thống quản lý, phương pháp tính toán và vận hành tốt hơn. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm và tuyển dụng những nhân viên có khả năng xử lý tốt các vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh. Nguồn vốn doanh nghiệp có thể tận dụng trong giai đoạn này đó là vay từ ngân hàng, từ lợi nhuận, đối tác, viện trợ và những lựa chọn cho thuê.
4. Giai đoạn ổn định
Trong giai đoạn thiết lập việc kinh doanh của công ty dường như đã "chín" và phát đạt với số lượng khách hàng trung thành chiếm vị trí trên thương trường. Tăng trưởng bán hàng không còn bùng nổ như trước nhưng vẫn duy trì trong tầm kiểm soát. Việc kinh doanh cũng trở thành một "thói quen" với các tiến trình tại chỗ nhằm bảo đảm cho tính kiên định, lâu dài đối với sự phát triển của doanh nghiệp.Giai đoạn này doanh nghiệp có thể "tạm nghỉ ngơi" và hài lòng với những thành tích đã đạt được. Chủ doanh nghiệp đã làm việc cật lực và cũng cần thư giãn, tuy nhiên thương trường vô cùng tàn nhẫn, khốc liệt và mang tính cạnh tranh cao. Do vậy doanh nghiệp cần có một điểm tựa vững mạnh hơn trong hình ảnh lớn hơn. Những vấn đề như nhân tố kinh tế, tính cạnh tranh hay sự thay đổi thị yếu của khách hàng cũng như xu hướng có thể nhanh chóng làm cho mọi cố gắng trên của doanh nghiệp trở thành "công cốc công cò". Do vậy chu trình nhịp sống của doanh nghiệp được thiết lập sẽ phải dựa trên những cải tiến và hoạt động năng suất.
Để có thể cạnh tranh được với thị trường vốn, chủ doanh nghiệp sẽ cần đến những hoạt động kinh doanh tốt hơn và quy mô lớn hơn cùng với kỹ thuật tự động hoá và đổi mới các thiết bị nhằm cải thiện năng suất kinh doanh. Nguồn vốn cho giai đoạn này có thể lấy từ các khoản lợi nhuận, vay ngân hàng, nhà đầu tư và các khoản viện trợ của chính phủ. Con đường kinh doanh gồm 7 giai đoạn nhưng không phải chúng diễn ra theo trình tự. Một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng chuyển từ giai đoạn khởi động đến tan rã rất nhanh.
5. Giai đoạn mở rộng
Sự tăng trưởng mới trong thị trường mới và các kênh phân phối là những đặc trưng cơ bản dễ thấy trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn cho sự lựa chọn của các ông chủ doanh nghiệp nhỏ nhằm chiếm lĩnh những phần lớn hơn của cổ phần thị trường và tìm kiếm nguồn doanh thu mới cũng như các kênh kinh doanh khác mang lại lợi nhuận. Việc mở rộng vào những thị trường mới đòi hỏi sự nghiên cứu và lên kế hoạch cho việc kinh doanh ở giai đoạn "gieo hạt" và "khởi động". Chủ doanh nghiệp nên tập trung những công việc kinh doanh mạo hiểm một chút. Điều này sẽ làm giàu thêm khả năng hiện tại và kinh nghiệm của chính họ.Tiến lên phía trước lao vào những lĩnh vực kinh doanh mới không liên quan có thể là cách thử sức với những thử thách tàn khốc. Cụ thể là doanh nghiệp nên tăng thêm những sản phẩm, dịch vụ mới và tung ra thị trường hiện tại hay mở rộng những sản phẩm dịch vụ đã có vào thị trường mới, vào các đối tượng khách hàng khác nhau và hoặc thị trường định hướng tới. Nguồn vốn cho giai đoạn mở rộng có thể lấy từ liên doanh, các ngân hàng, nhà đầu tư mới, đối tác.
6. Giai đoạn suy thoái
Những thay đổi về điều kiện thị trường, xã hội, nền kinh tế có thể làm giảm số lượng bán hàng, do đó lợi nhuận cũng giảm theo. Vấn đề này có thể làm cho nhiều doanh nghiệp nhỏ phá sản nhanh hơn. Bởi các doanh nghiệp trong giai đoạn này sẽ phải đương đầu với rất nhiều thử thách như lợi nhuận và doanh số bán hàng suy giảm, dòng ngân lưu có thể rơi vào tình trạng thâm hụt. Vấn đề lớn nhất đó là kéo dài thời gian để doanh nghiệp có thể hỗ trợ cho dòng ngân lưu đang không mấy khả quan này.Chủ doanh nghiệp có thể bắt đầu tự hỏi liệu đã đến lúc chuyển sang giai đoạn cuối cùng của chu trình nhịp sống doanh nghiệp - giai đoạn từ bỏ (tan rã) hay chưa. Họ cũng nên tìm kiếm những cơ hội mới, những mạo hiểm kinh doanh mới. Biện pháp cắt giảm chi phí và tìm ra những hướng đi mới nhằm mở rộng dòng ngân lưu là những việc làm cấp bách, cần thiết cho giai đoạn này. Nguồn vốn có thể huy động từ nhà cung cấp, khách hàng, những người sở hữu.
7. Giai đoạn tan rã
Giai đoạn này là thời điểm toàn bộ cả năm cố gắng và làm việc vất vả lao vào kinh doanh đồng khởi ra đi, hoặc nó có thể hiểu đơn giản là chấm dứt công việc kinh doanh toàn bộ. Việc bán doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi, nó đòi hỏi phải đánh giá thực tế tình hình công ty kỹ càng. Những năm làm việc cật lực để xây dựng công ty đôi khi thật khó khăn nén lại để xem xét đánh giá tình hình thực tế để quyết định đâu là giá trị đích thực của công ty (vị thế của công ty) trong thương trường hiện tại.Nếu một ông chủ doanh nghiệp bắt đầu tìm cách để đóng cửa doanh nghiệp, thì ông ta sẽ phải đối mặt với thử thách liên quan đến vấn đề tài chính và tâm lý của sự thua lỗ. Đó là việc cần thiết để có được giá trị đích thực và chuyên nghiệp của công ty. Chủ doanh nghiệp cũng nên xem xét cách vận hành, rào cản cạnh tranh và cách quản lý sao cho công ty có thể đáp ứng và làm hài lòng khách hàng.
Trong giai đoạn này, việc thiết lập văn bản thoả thuận mua bán hợp pháp cùng với kế hoạch chuyển nhượng kinh doanh là điều rất quan trọng. Và nguồn vốn cho giai đoạn này chính là đối tác đánh giá kinh doanh. Các cố vấn tài chính và kế toán có thể đưa ra chiến lược thuế tốt nhất để quyết định xem nên bán hay đóng cửa doanh nghiệp.
Chú ý:
Các giai đoạn của chu trình nhịp sống doanh nghiệp chắc chắn sẽ không xảy ra theo trình tự. Một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng chuyển từ giai đoạn khởi động đến tan rã rất nhanh. Số khác có thể không tiến đến giai đoạn mở rộng và chỉ dừng ở giai đoạn ổn định. Thành công rực rỡ hay thẩt bại thảm hại trong kinh doanh là tuỳ thuộc vào tài năng của chủ doanh nghiệp thích nghi với các thay đổi của chu trình cuộc sống.Điều mà họ nên làm là tập trung và áp dụng các biện pháp nhằm giúp công ty vượt qua giai đoạn khó khăn đó. Và những biện pháp này sẽ có tác động đến công ty sau này. Hiểu được việc áp dụng những giai đoạn nào trong chu trình kinh doanh là thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được bất kỳ thách thức nào phía trước và đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn.
MLM: cơ hội hay trò lừa đảo? (MLM: an Opportunity or a Scam?)
Tiếp tục câu chuyện về kinh doanh qua mạng (network marketing), còn gọi là bán hàng đa cấp (multi level marketing - MLM) và ở Việt nam gọi là "Bán hàng truyền tiêu", nay xin post lại một số bài từ mấy năm trước ở diễn đàn TTVNOL.
-------------------
MLM: cơ hội hay trò lừa đảo? (MLM: an Opportunity or a Scam?)
Judith A. Kautz - Source: http://entrepreneurs.about.com/library/weekly/1999/aa101799a.htm
Khái niệm
Các cơ hội kinh doanh theo dạng marketing đa cấp độ(MLM) dường như có mặt ở khắp nơi, không chỉ trên mạng internet mà còn len lỏi vào tận cuộc sống riêng tư của mỗi người, nó có mặt ở nơi bạn học, ở nhà thờ bạn thường tới cầu nguyện, nơi mà những nhà doanh nghiệp tích cực vận động cả đến nhóm nghiên cứu kinh thánh mua sản phẩm hay dịch vụ của họ. Thậm chí MLM cũng đã xâm nhập vào trong các văn phòng của cảnh sát. Người ta vừa phát hiện một kiểu dinh doanh theo cấu trúc hình tháp bất hợp pháp tại một trong những văn phòng của cảnh sát San Diego.
Vấn đề hay gây tranh cãi đó là MLM thực chất là gì và liệu nó có phải là một kiểu kinh doanh hợp pháp hay một hình thức lừa đảo? Tìm ra được câu trả lời trong hàng núi thông tin hỗn độn hiện nay quả thật là một việc làm nan giải. Sức lôi cuốn của một công việc kinh doanh với số vốn đầu tư tối thiểu và một hệ thống hỗ trợ tại chỗ là điều không thể phủ nhận. Nhưng đó có phải là sự thật không?
Một trong những khía cạnh rắc rối nhất của việc xem xét tính khả thi của nhiều cơ hội kinh doanh được thổi phồng lên đó là các thuật ngữ được dùng để mô tả chúng. MlM cũng thưòng đựoc gọi dưới cái tên là marketing theo mạng (Network marketing), Marketing trực tiếp đến người tiêu dùng (CDM - Consumer Direct Marketing), hay marketing có sự trợ giúp của người bán (SAM - Seller Assisted Marketing), một số những thuật ngữ khác cũng đang hình thành.
MLM là một hình thức kinh doanh trong đó việc trả hay nhận tiền bắt đầu từ cấp thứ hai. Đây là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất vì định nghĩa của nó phù hợp với những hạn chế pháp luật cho loại hình kinh doanh này.
Kinh doanh theo mạng (network marketing) là việc xây dựng một mạng lưới những người phân phối cần cho công việc kinh doanh. Thông thường kiểu kinh doanh theo mạng về bản chất cũng là kinh doanh đa cấp độ ở chỗ tiền thưởng xuất hiện khi mạng có hơn một cấp. Thuật ngữ này có khi bị hiểu sai để chỉ một kiểu kinh doanh trong đó xây dựng một mạng lưới những nhà cung cấp sản phẩm nhằm đem đến nhiều khả năng lựa chọn sản phẩm hơn. Đây là cách nhằm thuyết phục khách hàng rằng dịch vụ của một công ty nào đó là ưu việt hơn hẳn những công ty khác thuộc loại này.
Marketing trực tiếp đến người tiêu dùng là một thuật ngữ lừa đảo trong đó coi mang lưới phân phối chính là người tiêu thụ chứ không phải là những người phân phối. Trong những công ty kinh doanh dạng nạy thì người phân phối phải mua sản phẩm đề tiêu dùng cho mục đích cá nhân của mình.
Những kế hoạch marketing có sự trợ giúp của người bán hàng (SAMP - Seller Assisted Marketing Plans) là một thuật ngữ thường dùng trong luật pháp California để mô tả những hình thức kinh doanh khác nhau bao gồm cả MLM. Khi khoản đầu tư cho việc kinh doanh này là 500$ trở lên thì nó được gọi là SAMP.
Các công ty MLM hoạt động dựa trên một loạt những nguyên tắc riêng có thể hiểu được. Sự lỏng lẻo của những nguyên tắc này là nguyên nhân của nhiều vụ kiện tụng từ phía những người phân phối đã mất đi khoản tiền đáng kể vào các chương trình của những công ty này. Vụ kiện điển hình là với công ty Amway vào năm 1979. Uỷ ban thương mại liên bang Mỹ đã khống chế Amway vì công ty này có tham gia vào một số hoạt động lừa đảo, nhưng vì lợi nhuận thu được là thông qua việc bán hàng nên công ty này vẫn hoạt động dù luật pháp trói buộc.
Trong cuốn "Legal Principles of Multilevel Marketing - Các nguyên tắc hợp pháp của marketing theo cấp độ", Gerald P. Nehra chỉ ra rằng, để đảm bảo hoạt động đúng pháp luật, các công ty MLM phải đáp ứng những tiêu chuẩn sau:
1. Công ty phải cung cấp sản phẩm/dịch vụ
a) có thể bán lẻ
b) được bán lẻ.
2. Sản phẩm/dịch vụ đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua những đại diện bán hàng trực tiếp (những nhà thầu độc lập), chứ không phải là thông qua việc bán lẻ truyền thống.
3. Chế độ đền bù của công ty
a) được thiết lập để trả cho những đại diện của công ty vì lượng hàng/dịch vụ họ bán được
b) bao gồm cả khoản thưởng thêm cho những đại diện nào giới thiệu được thêm những đại diện khác vào công ty căn cứ vào lượng hàng mà đại diện thứ hai này bán được.
Một công ty có các điều kiện 1, 2, 3a là một công ty bán hàng trực tiếp một cấp, phải có thêm 3b thì công ty đó mới là kinh doanh đa cấp độ. Phải hội đủ cả ba yếu tố trên thì một công ty mới được coi là hợp pháp, nếu thiếu bất cứ một yếu tố nào cũng bị coi là bất hợp pháp. Nếu một công ty trả tiền cho người đại diện trực tiếp hay gián tiếp chỉ vì việc giới thiệu hay tuyển những người khác tham gia vào chương trình này thì đó chính là kiểu hoạt động theo hình tháp vốn bị pháp luật ngăn cấm.
Thêm vào đó, luật tại Mỹ gần đây đòi hỏi các công ty kinh doanh theo MLM phải đảm bảo ít nhất 70% sản phẩm của công ty do những người không phân phối tiêu dùng. Ngoài những tranh cãi xung quanh MLM là gì, rất nhiều người cũng băn khoăn với vấn đề là liệu những công ty MLM có thật sự làm đúng những gì họ hứa hay không.
Những ý kiến tán thành và phản đối
Hãy xem xét những lời hứa hẹn của các công ty MLM và sự thật đằng sau những hứa hẹn đó:
1. Marketing theo mạng là một cách kiếm hàng tấn tiền.
Theo DSA (Direct Selling Association - Hiệp hội bán hàng trực tiếp) đại diện cho 200 công ty bán hàng trực tiếp vào thập niên 90 doanh số hàng năm của những công ty bán hàng trực tiếp tăng thêm 30 %, đạt con số 18 tỉ USD trong đó bán hàng theo mạng chiếm 51%. Số lượng những người bán hàng cũng tăng lên với tỉ lệ như vậy và đạt 7,2 triệu người trong đó những người bán hàng theo mạng chiếm 58%. Hơn một nửa số người làm marketing theo mạng như một công việc chính kiếm được trên 50 000$ một năm, có 10% kiếm được trên 100 000 $.
Tuy vậy, DSA cũng đã phủ nhận những tin đồn cho rằng hầu hết những nhà triệu phú đang rút khỏi công việc kinh doanh theo mạng. Chủ tịch DSA cho rằng điều đó là ngớ ngẩn.
Doanh số và mức độ đền bù trung bình cho một người khác nhau đáng kể khi so với những cơ hội kinh doanh khác. Theo DSA, excel có tỉ lệ người ra và vào mạng là 86%, đó là con số thấp nếu so sánh với những công ty kinh doanh theo mạng khác. Equinox tiết lộ rằng, những người phân phối của công ty kiếm được trung bình 756$ một năm còn ở Amway là 1056$.
2. MLM sẽ là một xu thế trong tương lai. Cuối cùng tất cả hàng hoá đều được bán theo MLM.
MLM chiếm không hơn 1% doanh số của loại hình bán lẻ. Hầu hết doanh số bán hàng đạt được do những người phân phối mới, họ mới thiết lập công việc kinh doanh của mình.
3. Hoạt động của MLM không bao gồm những khoản chi khổng lồ cho quảng cáo và marketing do vậy có thể dùng nhiều tiền hơn để phát triển sản phẩm cho ra những sản phẩm có chất lượng ngaỳ một tốt hơn mà vẫn được bán với giá thấp hơn những sản phẩm cùng loại bán theo cách thông thường.
Việc định giá sản phẩm luôn đi lên theo đường xoắn ốc một phần là vì dòng chảy ồ ạt những cơ hội kinh doanh MLM trên một thị trường đã bão hoà. Để thu hút thêm những nhà phân phối, các công ty cạnh tranh với nhau băng cách đưa ra những chế độ đền bù hậu hĩnh hơn, khi tỉ lệ sản phẩm bán được tăng lên thì hoa hồng cũng tăng lên, cũng giống như là mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với giá bán buôn vậy, và giá bán lẻ do vậy cũng tăng lên. Vào năm 1945, phần đền bù của MLM là 3% đối với 1 thế hệ trở xuống. Vào thập niên 60, tiền trả tăng lên 15-20% đối với 4 hay 5 thế hệ dưới. Trong suốt thập niên 80, tổng số tiền trả trở nên phổ biến. Hầu hết những kế hoạch đền bù ngày nay đưa ra những khoản trả chiếm 60-75% hoặc hơn nữa, mặc dù mức độ tiền thưởng nói chung là 45 -60%.
Kết quả là một lọ dầu gội đầu nặng khoảng 200g sẽ có giá là 25$ trong khi mức chi phí bán buông thông thường đối với một lọ dầu gội đầu là 9 - 12$ , quá đắt để có được một chất lượng hơn hẳn hay chi phí rẻ hơn so với một cửa hàng nào đó nơi bạn sống.
4. Sẽ có vô số người tham gia làm người phân phối cấp dưới của bạn.
Nếu mỗi người phân phối chỉ tuyển 10 người và mỗi người đó lại tuyển thêm 10 người nữa, với mạng lưới bên dưới gồm 10 cấp, sẽ có 10 tỉ người tham gia vào việc phân phối này, còn lớn hơn cả dân số của quả đất này. Đây chỉ là một con tính đơn giản cho thấy lượng dân số như thế nào là phù hợp (giả định mọi ngươì dân trên trái đẫt này mong muốn mua sản phẩm và dịch vụ đó):
1 -> 10 -> 100 -> 1000 - > 10000 - > 100000 - > 1000000 - > 10 000000...
Nếu một người thay vì tuyển 10 người chỉ tuyển 6 người thôi ở mỗi cấp, con số vẫn tăng lên rất nhanh chóng:
1 - > 6 - > 36 - > 216 - > 1296 - > 7776 - > 46 656 - > 279 936 - > 1 679 616...
Nhưng có thể bạn không phải là người số một có nghĩa bạn đã là một cấp dưới trong dây truyền này rồi. Bạn có thể sống ở một nơi nào đó mà có đủ người dân ủng hộ việc bán loại hàng này?
5. Bán hàng cho bạn bè và gia đình thì rất dễ vì họ yêu quí bạn và muốn bạn thành công.
Có vô số những câu chuyện về những người đã đánh mất những mối quan hệ xã hội của mình chỉ vì việc ép buộc bạn bè và gia đình mua sản phẩm của mình. Marketing bằng phương pháp này là áp lực đối với những mối quan hệ như thế và đến một lúc nào đó gây nên sự rạn nứt đổ vỡ không gì cứu vãn nổi. Việc bán lẻ trực tiếp cho bạn bè theo mối quan hệ một- một đòi hỏi những người bạn đó phải thay đổi thói quen mua hàng. Thay vì mua một lọ dầu gội đầu khi đang ở trong cửa hàng, họ phải sắp xếp để mua nó từ bạn và có lẽ là phải trả với giá cao hơn. Điêu đó thật bất tiện, hơn nũa thu thập từ những người bạn quả là một thử thách.
6. Có thể tiến hành việc kinh doanh theo MLM trong thời gian rỗi của bạn. Bạn có thể kiếm được hàng triệu khi đang ngủ.
Nếu muốn làm đúng, MLM đòi hỏi một sự cam kết về thời gian khá lớn. Bạn phải luôn sẵn sàng bán hàng bất cứ lúc nào. Thường thường những người thất bại là những người không có cam kết. Cam kết ở đây là xem mọi người như là những khách hàng tiềm năng là luôn luôn bán hàng, không được ngừng trệ.
Nhiều người thường ví von những gì diễn ra trong công ty MLM giống như là một sự tẩy não. Những khẩu hiệu được truyền mồm giữa những thành viên trong công ty mà người ta không nhận thức được rằng chúng lố bịch như thế nào. Có những gia đình cảm thấy rằng họ đang mất đi một thành viên của mình vì một cơ cấu MLM, đã vội đưa ra những lời khuyên răn nhằm cứu thành viên đó thoát khỏi tổ chức. Điều này không đúng đối với hầu hết những tổ chức MLM. Khi có những nghi vấn người ta thường yếu cầu đưa ra những bằng chứng thực tế. Trong những công ty đáng nghi, thay vì những bằng chứng thực tế, người ta thường che dấu dưới một hình thức nào đó.
Liệu có những công ty MLM đáng để đầu tư hay không và liệu đây có phải là phương cách để người ta kiếm sống hay không? Tất nhiên là có. Theo cảm nhận, thành công của những công ty tốt là do việc thu hút quá nhiều những kẻ có mưu đồ xấu. Tuy nhiên những con người đó lại quá hùng hồn và nhiệt tình khi chào hàng nên khó có thể tìm ra được thực chất của vấn đề trong lĩnh vực này.
Bàn luận về Marketing đa cấp độ (MLM) và bán hàng truyền tiêu...
Nguồn gốc của Marketing đa cấp độ (The Origin of Multi-Level Marketing)
Stephen Barrett, M.D.
Sự ra đời của Marketing đa cấp độ đi liền với tên tuổi của tập đoàn Amway và sản phẩm Nutrilike. Khái niệm về Nutrilike có nguồn gốc vào đầu thập niên 30 theo ý tưởng của một doanh nhân sống ở Trung Quốc từ năm 1917 đến năm 1927 tên là Carl Rehnborg. Theo những tài liệu xuất bản của Amway, chính vì lẽ đó mà Rehnborg "có cơ hội đi sâu nghiên cứu những tác động của chế độ dinh dưỡng không hợp lí, đồng thời trở nên quen thuộc với nền văn hoá ẩm thực vào thời ông sống".
Với kết luận rằng cơ thể con người rất cần một chế độ dinh dưỡng cân bằng để thực hiện tốt các chức năng của nó, ông bắt đầu hình dung ra một loại chất bổ sung dinh dưỡng có thể cung cấp cho con người những chất dinh dưỡng quan trọng bất kể thói quen ăn uống khác nhau của mỗi người.
Sau 7 năm nghiên cứu thí nghiệm, Rehnborg sản làm ra những thức ăn bổ sung dinh dưỡng và đưa cho bạn bè dùng thử. Theo con trai ông, Sam, người sau này trở thành giám đốc Nutrilike và một nhà quản lí của công ty này nói:
Cứ sau một thời gian, bố tôi lại tới thăm bạn bè của ông để xem kết quả thế nào. Thường thì ông vẫn thấy những sản phẩm của mình vẫn để ở đằng sau các giá đựng đồ trong tình trạng chưa được dùng tới và bị quên lãng. Vì chúng chẳng tốn một xu để mua nên chúng chẳng có giá trị gì.
Đến lúc ấy thì bố tôi mới chợt phát hiện ra một nguyên tắc cơ bản là-ông chỉ cần tạo cho sản phẩm có một cái giá nào đó. Sau khi ông làm việc này thì bạn bè của ông do phải trả tiền để có nó nên đã thưởng thức sản phẩm rồi trở nên thích thú và hơn nữa cũng muốn bạn bè của họ được thưởng thức chúng. Khi họ đề nghị bố tôi bán loại sản phẩm này cho bạn bè mình, ông bèn nói:" Cậu cứ bán cho họ, tôi sẽ trả cậu một khoản hoa hồng."
Vào năm 1939, công ty cung cấp thực phẩm bổ sung dinh dưỡng của Carl Rehnborg còn gọi là tập đoàn Vitamin California đã đổi tên thành Nutrilike Products. Theo tài liệu lưu trữ của Toà án địa phương, việc phân phối thực phẩm bổ sung dinh dưỡng ra nước ngoài của Nutrilike thực sự bắt đầu vào năm 1945 khi công ty do Lee S. Mytinger và William S. Caselberry điều hành trở thành nhà phân phối độc quyền trong nước. Rehnborg giờ đây đóng vai trò là một cố vấn khoa học trong kế hoạch phân phối và sẽ giải thích cho nhóm bán hàng rằng sản phẩm của ông chứa đựng bí quyết chữa bệnh theo cách không thông thường và là câu trả lời cho việc tìm kiếm sức khoẻ của con người.
Tổng doanh số bán hàng tăng lên 500.000$ một tháng, nhưng những nhà sáng lập lại gặp vấn đề rắc rối với pháp luật. Vào năm 1947, FDA khởi xuớng một chiến dịch kéo dài 4 năm buộc Mytinger, Casselberry, Rehnborg, những công ty đáng kính của họ và 15000 đại lý phân phối từ nhà này sang nhà khác dừng việc đưa ra những cam kết khoa trương về sản phẩm của mình. Những khách hàng tiềm năng được phát một cuốn sách nhỏ ghi" Làm thế nào để có sức khoẻ tốt và giữ được sức khoẻ tốt" với ý nghĩa rằng Nutrilike là phương thuốc hữu hiệu nhất nhằm chống lại hầu hết các bệnh tật: dị ứng, hen suyễn, suy sụp tinh thần, tim đập không đều, viêm amiđan và khoảng 20 bệnh khác nữa. Cuốn sách nhỏ bao gồm những bức thư cảm ơn, ngụ ý rằng những bệnh như ung thư, đau tim, lao phổi, viêm khớp và nhiều bệnh nan y khác có thể có phản ứng tốt với cách điều trị bằng Nutrilike.
Sau khi Mytinger và Casselberry, Inc phải ra trình chính quyền vì việc đưa ra những lời lẽ dễ gây ngộ nhận như vạy thì cuốn sách được xem xét lại và được thiết kế lại bằng một thứ ngôn ngữ mới, trong đó coi các loại bệnh là "một tình trạng không khoẻ mạng gây ra bởi sự mât cân bằng hoá học". Sản phẩm của Nutrilike chẳng chữa được bệnh gì- người bệnh chỉ có thể khoẻ lên khi ăn chúng. Hầu hết những lời cam kết chữa bệnh trực tiếp bị xoá bỏ, thay vào đó là những trường hợp minh hoạ trong lịch sử. Dưới áp lực của chính quyền, những trường hợp minh hoạ trong cuốn sách bị xoá bỏ nhưng vẫn còn những sự hiểu làm xung quanh nó.
Vào năm 1951, toà án bang ra lệnh cấm mọi hoạt động bán những sản phẩm Nutrilike dựa trên cuốn" Làm thế nào để có sức khoẻ tốt và để giữ được sức khoẻ tốt" và hơn 50 ấn phẩm khác thổi phồng tầm quan trọng của những sản phẩm bổ sung dinh dưỡng.
Những nhà sáng lập ra Amway, Rich DeVo và Jay Van Andel vốn là bạn bè rồi sau đó trở thành những nhà phân phối cho Nutrilike sau khi họ tốt nghiệp trường trung học. Họ đã rất thành công và xây dựng một tổ chức bán hàng với hơn 2000 người phân phối. Sợ rằng Nutrilike Products có thể sụp đổ, họ thành lập một công ty mới, tập đoàn American Way Association, sau đó đổi tên là Amway. Họ bắt đầu tiếp thị những sản phẩm như chất tẩy trùng, các sản phẩm cọ rửa gia dụng và sau đó mở rộng ra là các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp, giấy vệ sinh, đồ trang sức, đồ thiết bị nội thất, sản phẩm điện...Tổng doanh số tăng đều đặn từ nửa triệu USD năm 1959 tới hơn 1 tỉ USD vào cuối thập niên 80.
Reference: Notices of judgment under the Federal Food, Drug, and Cosmetic Act. D.D.N.J., F.D.C. 3381-3383, Issued Aug 1951.
Xem thêm: MLM: cơ hội hay trò lừa đảo? (MLM: an Opportunity or a Scam?)
Đọc nhiều nhất
-
Đường Định mệnh (Sự nghiệp/May mắn)
Dẫn nhập: ngày trước cũng tò mò về cái chủ đề chỉ tay, rồi xem tay, rồi tự đọc và tìm hiểu loạn xị cả lên, thực ra kết quả chính là để loè g... -
Nguyệt Ánh: Chill-out là thương hiệu của tôi
Chủ đề cuộc gặp lần này xoay quanh dự án Nguyệt Ánh Chill-out của Nguyệt Ánh đang được chú ý trên báo chí, trong các forum âm nhạc và cả ở ... -
Phim: Buddha – Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca
Bộ phim Buddha về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ đản sanh đến niết bàn. Bộ phim lấy cảm hứng ( hoặc cũng có thể gọi là được chuyển t... -
Nếu không có thực lực, bạn chỉ là kẻ ăn bám
Dựa vào núi núi đổ, dựa vào người người chạy, chỉ có tự dựa vào chính mình mới là đáng tin cậy nhất. Ba mẹ có là ông nọ bà kia đi chăng nữa... -
Hiệu ứng domino và bí quyết tạo lập chuỗi các thói quen tích cực trong cuộc sống
Các hành vi của con người đều có mối liên hệ tương tác lẫn nhau Hãy lấy ví dụ về trường hợp của Jennifer Lee Dukes. Sau hơn 2 thập kỷ, từ k... -
10 kỹ năng & nguyên tắc giúp bạn trở thành chuyên gia
Kiến thức là vô cùng quan trọng và một điều tuyệt nhiên luôn đúng là nếu muốn thành công, bạn cần có một nền tảng kiến thức vững chắc. Tuy... -
Giới thiệu một chút về bản thân
Tên Quỳnh , họ Nguyễn . Chính vì thế mọi người vẫn gọi là Quỳnh Nguyễn , gọi mãi thành quen, đôi khi có người thấy viết là Quynh Nguyen, lại...
Tham khảo
Liên kết web
Phân loại
Báo chí
(55)
Văn hoá
(33)
Tâm lý
(28)
Tán nhảm
(27)
Công nghệ
(25)
Blog
(17)
Xã hội
(16)
Nghề nghiệp
(15)
Phim
(15)
Quora
(14)
Con người
(13)
Kinh doanh
(13)
Nhạc
(13)
Cuộc sống
(11)
Marketing
(11)
Công cụ
(10)
Kỹ năng
(10)
Lập trình
(10)
Lịch sử
(10)
Sách
(10)
Phát triển
(9)
Cặp đôi
(8)
Thiền
(7)
Tình yêu
(7)
Tản mạn
(7)
Sức khoẻ
(6)
Chính trị
(5)
Giáo dục
(5)
Hạnh phúc
(4)
Kim Dung
(4)
Kiếm hiệp
(4)
Mạng xã hội
(4)
Phần mềm
(4)
Tiền tệ
(4)
Tài chính
(4)
Phát triển cá nhân
(3)
Tâm linh
(3)
Quản lý công việc
(2)
Quản lý thời gian
(2)
Thực hành
(2)
Tiếp thị
(2)
Chăm sóc khách hàng
(1)
Làm việc
(1)
Lãnh đạo cá nhân
(1)
Nguỵ biện
(1)
Quản lý cá nhân
(1)
Thương hiệu
(1)