Hiển thị các bài đăng có nhãn Nổi bật. Hiển thị tất cả bài đăng
Một cách nhìn về triển khai phần mềm ở Việt Nam
Chúng ta đã được nghiên cứu rất cẩn thận về quy trình sản xuất phần mềm, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn bàn luận về một số kinh nghiệm trong công việc Triển khai Phần mềm tại Việt Nam theo một cách nhìn thực tế.
Để dễ dàng trình bày, tôi mạnh dạng cho rằng một sản phẩm phần mềm được đưa vào ứng dụng có thể so sánh với việc một tác phẩm âm nhạc được đưa ra phổ biến trong dân chúng. Thật vậy, nếu bỏ qua những đặc thù của từng loại thì có thể so sánh quy trình hình thành hai loại sản phẩm này như sơ đồ hình ở trên (http://www.erpsolution.com.vn/showthread.php?t=199)
Một tác phẩm âm nhạc đi đến với công chúng thường có 3 tầng sáng tác: Nhạc sĩ, ca sĩ và người nghe. Nhạc sĩ sáng tác là điều tất nhiên. Ca sĩ cũng sáng tác ra cách để biểu diễn và truyền đạt cảm hứng của nhạc phẩm ứng với từng sân khấu, từng đối tượng nghe. Người nghe mỗi người hiểu và thưởng thức nhạc phẩm theo cách riêng, không gian riêng, tâm trạng riêng của mình.
Có rất nhiều nhạc phẩm sau khi được sáng tác thì chính nhạc sĩ đó biểu diễn luôn ví dụ như các tác phẩm của các nhạc sĩ Thế Hiển, Đức Huy hay Quốc Bảo… nhưng hầu hết các nhạc phẩm được sáng tác bởi một nhạc sĩ và được biểu diễn bởi một số ca sĩ mà không phải là chính nhạc sĩ đã sáng tác ra nó, đôi khi nguyên nhân rất đơn giản là do người nhạc sĩ không có chất giọng tốt. Mức độ thành công của kiểu nói trên thật khó so sánh, nhưng phải chăng nó hình thành ngay trong chúng ta một số khái niệm đó là khả năng và sự phù hợp.
Hiện nay, việc triển khai phần mềm đã được nhìn nhận và đánh giá cao hơn bởi hai nguyên nhân chính, thứ nhất là nó đã mang lại một doanh số khá cao, thứ hai là những phần mềm của nước ngoài như Solomon, ERP, Aptra… thì Việt nam chỉ có triển khai chứ không sản xuất. Tuy nhiên, theo tôi còn một nguyên nhân khá quan trọng nhưng ít được nói đến là “ôm khách hàng”, nhiều doanh nghiệp ngầm xem việc đưa quân mình đi triển khai là con đường ngắn nhất để tạo uy tín và thương hiệu đối với khách hàng.
Cần phải nói thêm rằng càng ngày nhu cầu triển khai phần mềm tại Việt Nam càng được tăng cao, đã qua rồi cái thời các phần mềm theo kiểu “may đo” nhỏ lẻ mà thay vào đó là các yêu cầu tích hợp phần mềm, phần mềm dùng chung…đó là các phần mềm được triển khai toàn quốc, hay toàn tỉnh nên nhu cầu về cán bộ triển khai sẽ được chú trọng trong thời gian tới.
Như vậy, xét ở góc độ kinh doanh thì rõ ràng xứ mệnh của công việc triển khai phần mềm không hề nhỏ chút nào. Điều đáng nói ở đây là hầu hết các nơi đào tạo chuyên viên CNTT chỉ nhấn mạnh đào tạo học viên trong việc sản xuất phần mềm, còn việc triển khai phần mềm coi như là tất nhiên. Ai cũng biết rằng trong “Water fall” đã có “Deployment” nhưng những kỹ năng cần thiết của ca sĩ và nhạc sĩ thì không thể đánh đồng, bao hàm.
Bây giờ chúng ta thử đi vào ghi nhận lại những tồn đọng mà việc triển khai phần mềm đang gặp phải, chúng ta sẽ cố gắng bỏ qua những tồn đọng do nguyên nhân khách quan mà chỉ tập trung vào những nguyên nhân chủ quan.
Quản lý cấu hình
Điều này thường xuyên xảy ra đối với các cán bộ triển khai (CBTK) được lấy ra từ đội sản xuất. Cho dù có quy định thế nào đi nữa thì việc các CBTK ngồi sửa code tại khách hàng là điều khó tránh khỏi, vì theo suy nghĩ của họ thì chỉ cần sửa nhỏ chút xíu mà chương trình đáp ứng yêu cần của người dùng, sau này về cơ quan sửa lại. Tuy nhiên, khi về cơ quan thì vì rất nhiều nguyên nhân khuyến họ không còn nhớ việc đó nữa, nhiều người như vậy để rồi cuối cũng thì mỗi đơn vị khách hàng có một phiên bản khách nhau, đến một thời điểm thì việc quản lý cấu hình không còn khả thi. Điều này đã rất nhiều đơn vị gặp và hậu quả của nó là không thể thu thập đầy đủ các phản hồi của người dùng và cực kỳ khó khăn khi cài đặt phiên bản mới. Việc này có thể ví như anh chàng nhạc sĩ tự biểu diễn bài hát của mình, gặp hôm nào thấy đau cổ họng thì rút viết ra chỉnh lại vài nốt nhạc cho dễ hát.
Đóng gói
Thông thường thì đội sản xuất sẽ không mấy tập trung cho việc đóng gói sản phẩm, bởi khi họ trực tiếp đi triển khai thì việc cài đặt, cấu hình như thế nào sẽ không là vấn đề. Vấn đề sẽ cực kỳ gian nan với những CBTK mà không phải xuất thân từ đội sản xuất đó, họ phải làm quen hàng loạt thông số, dữ liệu, và đôi khi cả cấu trúc của chương trình. Đau khổ hơn là khi trực tiếp triển khai mới phát sinh lỗi mà lỗi này do một thông số nào đó mình chưa được đào tạo lại hoặc mình quên. Điều này giống như ca sĩ phải trình bày một nhạc phẩm sau khi nghe ai đó đã hát mà không được xem bản nhạc gốc, nên việc hát sai nhạc, sai lời là chuyện thường.
Tiếp nhận phản hồi
Khi khách hàng yêu cầu chỉnh sửa hoặc bỗ sung một số chức năng, nếu CBTK là người xuất thân từ đội sản xuất, thay vì anh ta ghi nhận hoặc giải thích thì anh ta lại đứng phân tích ngầm trong đầu: Việc này cần phải sửa database, sửa code, sửa report… nếu thấy sửa nhiều quá thì anh ta tìm mọi cách để áp đặt khách hàng làm theo ý mình, ngược lại, nếu thấy chỉ sửa nhỏ thì anh ta đồng ý. Rất nhiều khách hàng bực bội và cho rằng họ bị áp đặt và có một số trường hợp người dùng sẽ tẩy chay chương trình. Việc tiếp nhận phản hồi của khách hàng là một may mắn của sản phẩm phần mềm nếu so với tác phẩm âm nhạc, không có khán thính giả nào lại yêu cầu ca sĩ “về nói ông nhạc sĩ viết lời lại và chỉnh một số nốt nhạc thì tôi mới nghe”, mà ngược lại nếu nghe không hay thì người ta bỏ luôn. Chúng ta cần tận dụng tối đa may mắn này trong việc sản xuất phần mềm.
Hiểu nghiệp vụ
Hầu hết các doanh nghiệp chỉ chú tâm rằng nhân viên triển khai của mình đã nắm bắt được các tính năng của chương trình hay chưa, chứ không mấy quan tâm đến việc nhân viên của mình đã hiểu nghiệp vụ của người dùng hay chưa. Rắc rối này thường gặp nhất ở các nhân viên trẻ, trong quá trình đào tạo, họ thường chú tâm đến những gì phần mềm mình có mà rất ít khi quan tâm đến thực tế khách hàng làm việc thế nào, đã nhiều lần tôi gặp trường hợp khá buồn cười: sau khi hướng dẫn cho khách hàng đầy đủ các tính năng của chương trình Quản lý Công văn, khách hàng lấy ra một vài công văn yêu cầu CBTK áp dụng thử thì chịu, vì CBTK không biết được đâu là trích yếu, đâu là số ký hiệu gốc…của Công văn ấy. Đó là chưa nói có rất nhiều từ ngữ nghiệp vụ của khách hàng mà chúng ta hầu như chưa tìm hiểu bao giờ, ví dụ: “sao y” khác với “chứng thực” thế nào, “đăng bộ” là gì, “tống đạt” là gì… Tất nhiên, không môi trường đào tạo nào có thể giảng dạy đầy đủ, tuy nhiên việc chỉ tập trung nắm bắt các tính năng của chương trình mà quên đi nghiệp vụ đã để lại không ít hoài nghi trong suy nghĩ của khách hàng. Điều này cũng giống như ca sĩ chỉ cố công gào thét, còn gào thét để làm gì thì không xác định được.
Dẫn dắt vấn đề
Lần này thì giả sử họ hiểu nghiệp vụ rất rõ, nhưng tôi lại muốn nói đến khía cạnh CBTK dẫn dắt người dùng vào chương trình của mình như thế nào. Thường thì có 2 cách dẫn dắt: “1- các anh chị dùng tính năng X của chương trình để làm công việc A” hoặc “2- Khi có nhu cầu làm công việc A thì các anh chị mở tính năng X ra để áp dụng”, về ý nghĩa thì như nhau, nhưng hầu hết các CBTK thường dùng cách 1, trong khi cách 2 thường mang lại hiệu quả hơn, kiểu dẫn dắt ấy giúp người dùng đi từ những việc thông thường của họ và bước dần vào chương trình mới mẻ, cách 2 còn khẳng định với khách hàng rằng “tôi đã hiểu nghiệp vụ của các anh chị”. Các ca sĩ khi về những vùng quê muốn hát nhạc Disco thì trước tiên họ cũng hát vài bản nhạc tình cảm.
Giao tiếp
Có thể nói, khi đi triển khai, đối tượng làm việc của chúng ta là con người chứ không phải là máy tính như khi ta sản xuất chương trình. Chúng ta sẽ được tiếp súc với nhiều đối tượng, nhiều quan chức khác nhau, mỗi người trong họ lại có những độ thông cảm không giống nhau. Rắc rối sẽ bắt đầu xuất hiện khi chúng ta không đủ tự tin khi tiếp xúc với họ mà nguyên nhân phần lớn là do chúng ta chuẩn bị tâm lý không cẩn thận. Đặc biệt có nhiều vị khách hàng thường hỏi những vấn đề mỡ rộng đôi chút thì gần như CBTK bắt đầu lúng túng, đó cũng là thời điểm phát sinh tư tưởng “ngon”, không biết cũng không giám nói là “để em xem lại” hoặc “để em về báo cáo với lãnh đạo bên em”, thay vào đó CBTK lại mông lung nói không đâu ra đâu. Chúng ta thường đánh giá không cao khả năng về CNTT của khách hàng, tưởng rằng có thể “múa rìu qua mắt thợ điện” ai ngờ trước mặt mình là tay “thợ rừng chuyên nghiệp”. Xin phép khẳng định rằng trong khách hàng có không ít vị rất am tường về ứng dụng CNTT, vì thế chúng ta cần hết sức thận trọng, hoặc ít nhất chúng ta cần tôn trọng khách hàng vì họ luôn là người nắm nghiệp vụ hơn chúng ta nhiều.
Hình như trong suốt quá trình triển khai phần mềm, CBTK nào cũng ít nhất cãi nhau với khách hàng một vài lần, không phải cuộc cãi nhau nào cũng có hại nhưng chắc chắn rằng buổi làm việc đó sẽ không có kết quả. Các cuộc cãi nhau thường bắt đầu khi khách hàng chê phần mềm của chúng ta kém, máu “văn ta vợ người” trào lên, và lúc đó chúng ta cố hết lời để chứng minh phần mềm của mình ngon. Các ca sĩ thì họ thường chuẩn bị trước, không phải một bài hát họ rất tâm đắc nào cũng có thể làm hài lòng tất cả người nghe, có nhiều người mê cuồng bài hát đó nhưng cũng không ít người bỉu môi.
Kỹ năng giảng dạy
Điều này có lẽ phụ thuộc rất nhiều vào năng khiếu của mỗi người nhưng không phải là không thể tập luyện, bởi ngoài khả năng ăn nói lưu loát thì trong giảng dạy quan trọng nhất vẫn là nội dung muốn truyền đạt. Hầu hết CBTK đều không xác định trước đối tượng mình sẽ trình bày để chuẩn bị nội dung tương ứng, chúng ta cũng ít khi xác định mục đích và những tiêu chí cần thiết nhất để truyền đạt, nên dễ bị mông lung. Có khi chúng ta chỉ giảng dạy cho một nhóm người nhưng cũng nhiều khi chúng ta phải đứng giảng trước cả hội trường với Micro, máy chiếu. Có thể nói rằng rất ít người trong chúng ta đóng tròn vai thầy giáo này. Run sợ là biểu hiện đầu tiên, kéo theo đó là lắc chuột vô tội vạ trên màn hình, nói thì ít lắc chuột thì nhiều. Có khi dừng lại một hồi lâu không nói gì mà cứ gõ phím rồi lại xoá, gõ rồi lại xoá. Mồ hôi thì chảy dài trên má và đẫm cả áo, nhìn thấy thương. Cá biệt có trường hợp do run quá mà làm rơi Micro. Nhiều trường hợp không hề quan tâm đến việc chọn vị trí đứng giảng cho phù hợp vừa gây khó cho mình lại khó cho người thao dõi.
Rồi xưng hô, đứng giảng dạy nhiều bạn vẫn xưng là con cho ngôi thứ nhất, theo tôi thì cứ phải xưng tôi, chúng tôi hoặc tối thiểu cũng phải là em.
Theo tôi thì việc không chuẩn bị kỷ cho đội quân triển khai là nguyên nhân chính. Hậu quả của nó là cuối buổi dạy, nhìn xuống bên dưới không còn mấy người.
Sức khoẻ
CBTK phải có sức khoẻ dồi dào mới có thể đáp ứng yêu cầu công việc liên tục và cường độ cao. Trước hết, lịch sinh hoạt cá nhân hoàn toàn bị xáo trộn, qua rồi cái ngày ở nhà với mẹ, chăn ấm nệm êm, cơm no áo ấm. Lần này chúng ta phải thường xuyên di chuyển không kể ngày hay đêm, việc ngủ trên xe để sáng hôm sau đến nơi làm việc tiếp là bình thường. Nhiều bạn không quen đi xe nên bị say xe, uống thuốc vẫn say, mà đã say xe thì sự mệt mỏi là người bạn đồng hành bất đắc dĩ, chúng ta cũng không thể làm việc tốt mỗi khi có người bạn này bên mình. Không thể định trước mình sẽ ngủ bao nhiêu tiếng đồng hồ hay thức dậy lúc mấy giờ, cũng không thể định trước mình hoàn thành công việc vào giờ nào, xong việc có về được ngay hay phải trú lại đêm. Thường thì xong việc sẽ được mời nhậu, nếu chúng ta không biết nhậu thì đấy là một nỗi khốn khổ, tôi cũng là người không biết nhậu nên tôi thường từ chối với lý do việc còn nhiều, hoặc tôi sẽ đi cùng với một bạn biết nhậu. Nói chung cuộc sống của CBTK là: Ăn bất kỳ món gì, bất kỳ ở đâu, đâu cũng là nhà, đâu cũng là giường, chuyện giờ giấc xin quên đi và đòi hỏi chúng ta phải có một thể lực dồi dào. Đi triển khai cũng giống như ca sĩ chạy show, chỉ khác nhau là họ được nhiều tiền thù lao còn chúng ta được nhiều rượu bia, say xe và ăn quán ngủ trọ.
Dịch vụ cơ bản
Điều thiếu nhất của các CBTK xuất thân từ dân phần mềm là các dịch vụ cơ bản, nó là Windows, LDAP, DHCP, DNS, IIS, Mail Server, là ADSL, TCP/IP, kiến trúc mạng… Phần lớn chúng ta xem đó là những thứ đã có sẵn, đã hoàn chỉnh, công việc của chúng ta chỉ là Phần mềm. Cũng vì thế mà khi chạy đến khách hàng, thấy máy không kết nối mạng được thì chúng ta lại về, nếu chúng ta có kiến thức hạ tầng thì có thể chúng ta sẽ kiểm tra và kết nối mạng giúp các đơn vị, sau đó mình làm việc của mình, vừa hoàn thành công việc lại vừa được lòng khách hàng. Tất cả các kiến thức nói trên thật ra chỉ cần đào tạo trong một ngày là có thể áp dụng được nhưng hầu hết các doanh nghiệp không hề quan tâm đến nó, bản thân chúng ta cũng không tự nghiên cứu. Tệ hại hơn, nhiều bạn sau khi “mò mẫm” thì làm cho máy của khách hàng rớt mạng luôn, không biết chỉnh sửa thế nào nên đành bỏ về. Chúng ta nghĩ gì khi một ca sĩ đến nơi biểu diễn đầy ắp khán giả ham mộ, đầy đủ mọi thứ nhưng dàn nhạc không đánh được bài Rock mà ca sĩ định biểu diễn, thế là ca sĩ bỏ về trong sự ngơ ngác của khán giả. Rõ ràng nếu có sự chuẩn bị nghiêm túc thì ca sĩ luôn mang kèm theo mình đĩa nhạc đệm đã đánh sẵn.
Tán gẫu với IT
Thường thì đi ăn trưa hay đi nhậu, các IT tranh thủ hỏi chúng ta một số thông tin, khuất mắt, băn khoăn, nhất là các vấn đề về dịch vụ cơ bản như đã nói ở trên. Đôi khi chúng ta chỉ cần nói chuyện “chim trời cá nước” gì đó cũng được nhưng phải nói, phải giao tiếp thì mới vui, mới để lại ấn tượng. Không ít người chẳng biết nói gì nên cứ ngồi đợi người ta nói, mình nghe. Còn nếu IT cũng im re thì bữa ăn trở nên nặng nề vô cùng. Thật ra, thân tình với IT hay không là những lúc này, IT có quý mình hay không là những lúc này. Nếu chúng ta nói được những thông tin quý thoả đáng hoặc nói chuyện vui vẻ thì họ sẽ thấy chúng ta nhiệt tình, dễ mến. Nhiều ca sĩ hát nghe cũng được nhưng trả lời phỏng vấn của báo chí thì không nhận ra đâu là họ nữa.
Tư vấn
Đây là yếu điểm nhất của phần lớn các CBTK, trong các Hợp đồng Kinh tế về triển khai phần mềm thường để trách nhiệm của bên B: “Tư vấn và triển khai”, tuy nhiên gần như các doanh nghiệp chỉ chú tâm tư vấn ở tầm lãnh đạo, còn các CBTK hầu như quên mất nhiệm vụ này. Thật ra làm thế nào để có thể áp dụng phần mềm mình triển khai vào quy trình công việc hiện tại cuả khách hàng một cách phù hợp nhất mới là nhiệm vụ khó khăn của CBTK. Rất tiếc, các doanh nghiệp vừa thiếu người có khả năng tư vấn lại vừa thiếu quan tâm nên công việc triển khai phần mềm lắm khi có sự chênh vênh giữa yêu cầu người dùng và các tính năng của chương trình.
Cho dù còn nhiều khập khiển trong cách so sánh giữa sứ mệnh của Cán bộ triển khai phần mềm và sứ mệnh của Ca sĩ, tuy nhiên việc mang đến cho thính khán những âm hưởng ngọt ngào để rồi trong phút giây chạnh lòng con người ta lại nghĩ về âm hưởng đó, nghĩ về người ca sĩ đã truyền tải. Một ca khúc chỉ hay khi mà ca khúc ấy được biểu diễn bởi một ca sĩ có những tố chất phù hợp, một ca sĩ đầy tâm huyết và có sự chuẩn bị chu đáo.
Xem ra, những yêu cầu cần thiết của một CBTK không hề đơn giản, tuy nhiên cho dù không có được những yêu cầu trên thì những CBTK cũng đã hoàn thành “xuất sắc” công việc của mình. Thông điệp của bài viết cũng chỉ dừng lại ở góc độ tham khảo, nếu nhiều hơn cũng chỉ là một sự chuẩn bị tối thiểu về tư tưởng nếu chúng ta chọn công việc triển khai phần mềm. Riêng với tôi, là một cán bộ triển khai, tôi rất hạnh phúc, đơn giản vì nó phù hợp với sở thích. Khi triển khai phần mềm tôi được đi nhiều nơi, được sống cuộc sống mà có thể tạm gọi là “chu du thiên hạ”. Tôi thích được tiếp xúc với nhiều kiểu người khác nhau, thích được người khác đánh giá về mình và trong những chuyến đi, tôi không quên nhìn trời nhìn đất, nhìn núi nhìn sông, nhìn cảnh sống cơ cực của người dân trên khắp mảnh đất hình chữ S.
7 giai đoạn của quá trình kinh doanh
Những ai lao vào con đường kinh doanh, nuôi chí trở thành ông chủ doanh nghiệp nên biết rằng từ ngày đầu thành lập cho đến lúc tan rã trong kinh doanh họ sẽ phải trải qua các giai đoạn khác nhau. Trên thực tế tiến trình của con đường kinh doanh gồm có 7 giai đoạn. Nắm được 7 giai đoạn đó và biết cách lên kế hoạch sắp xếp cho chúng là điều hết sức quan trọng để đạt được những bước thành công trong kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.
1. Giai đoạn "gieo hạt"
Đó là giai đoạn mà việc kinh doanh chỉ tồn tại trong suy nghĩ hay nói cách khác đó chỉ là ý tưởng, ý đồ kinh doanh. Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn "khai sinh" doanh nghiệp mới. Hầu hết các công ty trong giai đoạn này sẽ cần vượt qua thử thách: chấp nhận thị trường và theo đuổi 1 thời cơ thích hợp riêng biệt. Trong giai đoạn này chủ các doanh nghiệp nên cẩn trọng, không nên rải các nguồn tài chính quá mỏng.Điểm trọng tâm của giai đoạn này làm sao chọn thời cơ kinh doanh phù hợp với kỹ năng, kinh nghiệm và niềm đam mê để khởi nghiệp. Và cũng đừng quên những điểm mấu chốt quan trọng khác đó là: quyết định chọn cơ cấu quyền sở hữu doanh nghiệp, tìm cố vấn chuyên nghiệp, và lập kế hoạch kinh doanh.
Những nguồn tài chính cho việc phát triển trong giai đoạn này có thể rất khó khăn để định vị. Bởi lẽ ở giai đoạn này, doanh nghiệp sẽ phải tự tìm kiếm thị trường, khách hàng cho chính mình. Doanh nghiệp có thể sẽ phải dựa vào nguồn vốn vay mượn từ chủ sở hữu, bạn bè, gia đình, hay các nhà đầu tư cá nhân. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể sử dụng vốn từ nguồn khác như: nhà cung cấp, khách hàng, các khoản viện trợ của chính phủ.
2. Giai đoạn khởi động
Doanh nghiệp vừa được hình thành và tồn tại một cách hợp pháp. Các sản phẩm và dịch vụ hiện đã đi vào sản xuất và đã có những khách hàng đầu tiên. Trong giai đoạn kinh doanh này, những đòi hỏi về vốn và thời gian tìm kiếm thị trường được đánh giá khá cao. Và thử thách căn bản ở đây đó là không được để những khoản tiền dù là nhỏ nhất tuột khỏi tay. Chủ doanh nghiệp phải học cách khảo sát "tính thực tế" những nhu cầu từ phía khách hàng có thể mang lại lợi nhuận và chắc chắn rằng việc kinh doanh đang đi đúng hướng.Giai đoạn khởi động đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập cơ sở khách hàng và thị trường cùng với nguồn ngân lưu được kiểm soát và theo dõi. Nguồn vốn hỗ trợ cho sự phát triển trong giai đoạn này có thể kêu gọi từ người sở hữu, bạn bè, gia đình, nhà cung cấp, khách hàng, đi vay hay các khoản viện trợ.
3. Giai đoạn phát triển
Ở giai đoạn này, doanh nghiệp đã trải qua "những năm chập chững biết đi" và nay phát triển thành một "đứa trẻ" thực sự. Các khoản doanh thu và khách hàng đang tăng lên điều đó đồng nghĩa với sự xuất hiện của những thời cơ mới cũng như những thách thức mới. Lợi nhuận sinh trưởng kéo theo tính cạnh tranh cũng tăng. Thử thách khốc liệt nhất trong giai đoạn này mà công ty phải đối mặt với đó chính là thực đơn không đổi các vấn đề đưa ra để giành lấy thời cơ và các nguồn tài chính. Để làm được điều đó đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý hiệu quả cao và có thể lên kế hoạch kinh doanh mới. Học hỏi để đào tạo nhân viên như thế nào cũng như việc quản lý và nghệ thuật giao phó, uỷ thác là chìa khoá cho sự thành công của giai đoạn này.Chu trình nhịp sống tăng trưởng của các doanh nghiệp dựa trên sự vận hành của chính doanh nghiệp ấy theo một cách thức chuẩn hơn nhằm đáp ứng với khối lượng bán hàng và lượng khách hàng ngày càng tăng. Do đó doanh nghiệp cần áp dụng những hệ thống quản lý, phương pháp tính toán và vận hành tốt hơn. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần tìm kiếm và tuyển dụng những nhân viên có khả năng xử lý tốt các vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh. Nguồn vốn doanh nghiệp có thể tận dụng trong giai đoạn này đó là vay từ ngân hàng, từ lợi nhuận, đối tác, viện trợ và những lựa chọn cho thuê.
4. Giai đoạn ổn định
Trong giai đoạn thiết lập việc kinh doanh của công ty dường như đã "chín" và phát đạt với số lượng khách hàng trung thành chiếm vị trí trên thương trường. Tăng trưởng bán hàng không còn bùng nổ như trước nhưng vẫn duy trì trong tầm kiểm soát. Việc kinh doanh cũng trở thành một "thói quen" với các tiến trình tại chỗ nhằm bảo đảm cho tính kiên định, lâu dài đối với sự phát triển của doanh nghiệp.Giai đoạn này doanh nghiệp có thể "tạm nghỉ ngơi" và hài lòng với những thành tích đã đạt được. Chủ doanh nghiệp đã làm việc cật lực và cũng cần thư giãn, tuy nhiên thương trường vô cùng tàn nhẫn, khốc liệt và mang tính cạnh tranh cao. Do vậy doanh nghiệp cần có một điểm tựa vững mạnh hơn trong hình ảnh lớn hơn. Những vấn đề như nhân tố kinh tế, tính cạnh tranh hay sự thay đổi thị yếu của khách hàng cũng như xu hướng có thể nhanh chóng làm cho mọi cố gắng trên của doanh nghiệp trở thành "công cốc công cò". Do vậy chu trình nhịp sống của doanh nghiệp được thiết lập sẽ phải dựa trên những cải tiến và hoạt động năng suất.
Để có thể cạnh tranh được với thị trường vốn, chủ doanh nghiệp sẽ cần đến những hoạt động kinh doanh tốt hơn và quy mô lớn hơn cùng với kỹ thuật tự động hoá và đổi mới các thiết bị nhằm cải thiện năng suất kinh doanh. Nguồn vốn cho giai đoạn này có thể lấy từ các khoản lợi nhuận, vay ngân hàng, nhà đầu tư và các khoản viện trợ của chính phủ. Con đường kinh doanh gồm 7 giai đoạn nhưng không phải chúng diễn ra theo trình tự. Một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng chuyển từ giai đoạn khởi động đến tan rã rất nhanh.
5. Giai đoạn mở rộng
Sự tăng trưởng mới trong thị trường mới và các kênh phân phối là những đặc trưng cơ bản dễ thấy trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn cho sự lựa chọn của các ông chủ doanh nghiệp nhỏ nhằm chiếm lĩnh những phần lớn hơn của cổ phần thị trường và tìm kiếm nguồn doanh thu mới cũng như các kênh kinh doanh khác mang lại lợi nhuận. Việc mở rộng vào những thị trường mới đòi hỏi sự nghiên cứu và lên kế hoạch cho việc kinh doanh ở giai đoạn "gieo hạt" và "khởi động". Chủ doanh nghiệp nên tập trung những công việc kinh doanh mạo hiểm một chút. Điều này sẽ làm giàu thêm khả năng hiện tại và kinh nghiệm của chính họ.Tiến lên phía trước lao vào những lĩnh vực kinh doanh mới không liên quan có thể là cách thử sức với những thử thách tàn khốc. Cụ thể là doanh nghiệp nên tăng thêm những sản phẩm, dịch vụ mới và tung ra thị trường hiện tại hay mở rộng những sản phẩm dịch vụ đã có vào thị trường mới, vào các đối tượng khách hàng khác nhau và hoặc thị trường định hướng tới. Nguồn vốn cho giai đoạn mở rộng có thể lấy từ liên doanh, các ngân hàng, nhà đầu tư mới, đối tác.
6. Giai đoạn suy thoái
Những thay đổi về điều kiện thị trường, xã hội, nền kinh tế có thể làm giảm số lượng bán hàng, do đó lợi nhuận cũng giảm theo. Vấn đề này có thể làm cho nhiều doanh nghiệp nhỏ phá sản nhanh hơn. Bởi các doanh nghiệp trong giai đoạn này sẽ phải đương đầu với rất nhiều thử thách như lợi nhuận và doanh số bán hàng suy giảm, dòng ngân lưu có thể rơi vào tình trạng thâm hụt. Vấn đề lớn nhất đó là kéo dài thời gian để doanh nghiệp có thể hỗ trợ cho dòng ngân lưu đang không mấy khả quan này.Chủ doanh nghiệp có thể bắt đầu tự hỏi liệu đã đến lúc chuyển sang giai đoạn cuối cùng của chu trình nhịp sống doanh nghiệp - giai đoạn từ bỏ (tan rã) hay chưa. Họ cũng nên tìm kiếm những cơ hội mới, những mạo hiểm kinh doanh mới. Biện pháp cắt giảm chi phí và tìm ra những hướng đi mới nhằm mở rộng dòng ngân lưu là những việc làm cấp bách, cần thiết cho giai đoạn này. Nguồn vốn có thể huy động từ nhà cung cấp, khách hàng, những người sở hữu.
7. Giai đoạn tan rã
Giai đoạn này là thời điểm toàn bộ cả năm cố gắng và làm việc vất vả lao vào kinh doanh đồng khởi ra đi, hoặc nó có thể hiểu đơn giản là chấm dứt công việc kinh doanh toàn bộ. Việc bán doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi, nó đòi hỏi phải đánh giá thực tế tình hình công ty kỹ càng. Những năm làm việc cật lực để xây dựng công ty đôi khi thật khó khăn nén lại để xem xét đánh giá tình hình thực tế để quyết định đâu là giá trị đích thực của công ty (vị thế của công ty) trong thương trường hiện tại.Nếu một ông chủ doanh nghiệp bắt đầu tìm cách để đóng cửa doanh nghiệp, thì ông ta sẽ phải đối mặt với thử thách liên quan đến vấn đề tài chính và tâm lý của sự thua lỗ. Đó là việc cần thiết để có được giá trị đích thực và chuyên nghiệp của công ty. Chủ doanh nghiệp cũng nên xem xét cách vận hành, rào cản cạnh tranh và cách quản lý sao cho công ty có thể đáp ứng và làm hài lòng khách hàng.
Trong giai đoạn này, việc thiết lập văn bản thoả thuận mua bán hợp pháp cùng với kế hoạch chuyển nhượng kinh doanh là điều rất quan trọng. Và nguồn vốn cho giai đoạn này chính là đối tác đánh giá kinh doanh. Các cố vấn tài chính và kế toán có thể đưa ra chiến lược thuế tốt nhất để quyết định xem nên bán hay đóng cửa doanh nghiệp.
Chú ý:
Các giai đoạn của chu trình nhịp sống doanh nghiệp chắc chắn sẽ không xảy ra theo trình tự. Một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng chuyển từ giai đoạn khởi động đến tan rã rất nhanh. Số khác có thể không tiến đến giai đoạn mở rộng và chỉ dừng ở giai đoạn ổn định. Thành công rực rỡ hay thẩt bại thảm hại trong kinh doanh là tuỳ thuộc vào tài năng của chủ doanh nghiệp thích nghi với các thay đổi của chu trình cuộc sống.Điều mà họ nên làm là tập trung và áp dụng các biện pháp nhằm giúp công ty vượt qua giai đoạn khó khăn đó. Và những biện pháp này sẽ có tác động đến công ty sau này. Hiểu được việc áp dụng những giai đoạn nào trong chu trình kinh doanh là thích hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được bất kỳ thách thức nào phía trước và đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn.
Tứ nữ đồng chu, Trương lang hữu mộng
Và dưới đây là bài viết khá hay của tác giả [email protected] về một trích đoạn trong phim (post trong topic “Tân Ỷ Thiên Đồ Long Ký 2009”) về giấc mộng "giữa ban ngày" của Trương Vô Kỵ: giấc mơ được lấy cả bốn cô vợ Mẫn, Nhược, Ly, Chiêu.
Tại sao lại hôn nhỉ?
Nàng khép hờ đôi mắt. Bạn quàng tay qua eo nàng và kéo lại gần phía mình. Bạn nghiêng đầu và gắn chặt môi lên môi nàng. Một cảm giác tê dại lan toả khắp người. Bạn tự hỏi: "Tại sao mình lại làm chuyện này chứ nhỉ?".
Tất nhiên câu trả lời đơn giản nhất là con người hôn nhau bởi cảm giác của nó thật tuyệt. Nhưng với nhiều người câu trả lời đó chưa thoả đáng.
Từ trước đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích rõ ràng cái hôn của con người bắt nguồn từ đâu, nhưng họ đã đưa ra một số giả thuyết mới và lý giải hệ sinh học của chúng ta bị tác động như thế nào bởi cái khoá môi.
Câu hỏi được đặt ra: Hôn là một hành vi được học hay do bản năng? Một số nói đó là hành vi học hỏi, có từ thời tổ tiên xa xưa của chúng ta. Vào thời đó, các bà mẹ nhai thức ăn và mớm cho con mình khi chúng chưa có răng. Về sau khi các em bé mọc răng, các bà mẹ cũng ấn môi vào má chúng để xoa dịu cơn đau.
Và ngoài ra không phải con người nào cũng hôn. Một số bộ lạc trên thế giới không hề hôn. Trong khi 90% dân số thế giới hôn nhau, 10% không hề biết rằng mình đã bỏ lỡ điều gì.
Những người khác lại tin rằng hôn là một hành vi bản năng và lấy những hành vi âu yếm của động vật ra làm bằng chứng. Trong khi một số con vật cọ mũi vào nhau để thể hiện tình cảm, những con khác cũng khoá môi như con người. Khỉ đầu chó chẳng hạn, tìm ra rất nhiều lý do để hôn hít. Chúng hôn để làm lành sau đánh nhau, để an ủi kẻ khác, để tăng tình bằng hữu, và đôi khi chẳng vì lý do gì cả.
Ngày nay, giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất về nụ hôn là con người hôn nhau bởi nó giúp chúng ta "đánh hơi" được bạn tình lý tưởng. Khi 2 khuôn mặt ở sát gần nhau, các pheromone "lên tiếng", trao đổi thông tin về việc liệu 2 người có thể cùng nhau tạo ra những đứa con khoẻ mạnh. Chẳng hạn phụ nữ sẽ vô thức thích mùi hương của những anh chàng có protein trong hệ miễn dịch khác của họ. Sự kết hợp này sẽ tạo ra những đứa con có hệ miễn dịch khoẻ hơn và cơ hội sống sót tốt hơn.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người vẫn thoả mãn với lý giải rằng con người hôn bởi vì nó thú vị. Môi và lưỡi của chúng ta chứa rất nhiều đầu dây thần kinh, giúp tăng cường cảm giác ngây ngất trong tình yêu khi hai đôi môi ép lên nhau. Thông thường, cảm giác đó không khiến chúng ta băn khoăn vì sao lại hôn nhau mà còn khiến chúng ta làm nhiều hơn.
Hành trình về Phương Đông
Tò mò đọc thử thì thấy rất cuốn hút và càng đọc thì càng thấy thú vị. Khi đó cũng không rõ tác giả là ai, chỉ biết đó là một nhóm các nhà khoa học của Anh Quốc (và tất nhiên cũng không biết dịch giả là ai cả - sau mới biết là Nguyên Phong). Đọc xong thì trả, và từ đó cũng không thấy nữa.
Sau đó muốn đọc lại, có ra hiệu sách hỏi (hình như là ở Hiệu sách Tràng Tiền thì phải), thì được cô bán sách ở đó giáo huấn đây là "sách cấm" và không được phép ban hành. Lúc đó cũng thấy lạ, ông bạn nhắc, rồi cô bán sách "dạy dỗ" nhưng tôi chẳng hiểu tại sao lại bị cấm (lúc đó thôi, bây giờ thì không thấy nói là bị cấm). Cho dù nội dung có nhiều chỗ không thể (hoặc chưa thể) chứng minh, nhưng nó đem đến nhiều điều thú vị, và một trong những điều thú vị đó là sự tranh cãi rằng nó có phù hợp với xã hội Việt Nam hay không, hay nó là cấm hay không?
Rồi đến năm 1997, Internet vào Việt Nam và tất cả chúng ta có nhiều cơ hội để đọc, khai thác thông tin và trao đổi nhiều hơn. Lẽ tất nhiên, một cuốn sách thú vị thế này thì kiểu gì cũng sẽ xuất hiện trên Internet.
Tôi cũng đã đọc lại (đọc lướt thôi) từ kha khá lâu rồi, nhưng ngày hôm nay quyết định post lại tại đây để khi nào rảnh rang hơn đọc lại, để ngẫm nghĩ (và cũng có thể lấy làm chủ đề để trao đổi - cãi cọ vậy 😜😆😊).
Tác phẩm "Life and Teaching of the Masters of the Far East" (1935), hồi ký của Dr. Blair T. Spalding (1857 – 1953) Một phần của hồi ký đã được Nguyên Phong chuyển ngữ với tựa đề “Hành Trình Về Phương Đông”.
Nguyên tác có tất cả sáu quyển ghi nhận đầy đủ về cuộc hành trình gay go nhưng lý thú và tràn đầy sự huyền bí ở Ấn độ, Tây Tạng, Trung hoa và Ba Tư. Ba quyển đầu ghi lại những cuộc thám hiểm của phái đoàn từ Anh sang Ấn, sự gặp gỡ giữa phái đoàn và những vị thầy tâm linh sống ở Á châu, và ở dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ba quyển sau là những ghi nhận riêng của giáo sư Spalding về các cuộc hành trình. Sự trao đổi kiến thức giữa phái đoàn và các vị thầy tâm linh, với bản tường trình của phái đoàn đã đưa đến những cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng thì ba người trong phái đoàn đã trở lại Ấn Độ sống đời ẩn sĩ. Hồi ký của giáo sư Spalding là một công trình nghiên cứu nghiêm túc với nhiều dự kiện được phái đoàn ghi nhận đầy đủ một cách khoa học, và cho đến nay vẫn còn nhiều đọc giả hâm mộ, nhiệt liệt tán thưởng các quyển hồi ký này.
MỤC LỤC:
- Lời nói đầu
- Chương 1: Một người Ấn lạ kỳ
- Chương 2: Người đạo sĩ thành Benares
- Chương 3: Khoa Học Thực Nghiệm Và Khoa Học Chiêm Tinh Bí Truyền
- Chương 4: Trên Đường Thiên Lý
- Chương 5: Thành Phố Thiêng Liêng
- Chương 6: Những Sự Kiện Huyền Bí
- Chương 7: Vị Đạo Sĩ Có Thể Chữa Mọi Thứ Bệnh
- Chương 8: Đời Sống Siêu Nhân Loại
- Chương 9: Cõi Vô Hình
- Chương 10: Hành trình về Phương Đông
Đôi dòng về Nguyên Phong:
Nguyên Phong - John Vu (Vũ Văn Du)
Tác phẩm phóng tác “Hành trình về phương Đông” của tác giả Nguyên Phong quá xuất sắc và khác biệt so với bất kỳ bản gốc nào, nên vào năm 2009 NXB BookSurge Publishing tại New York cùng hai dịch giả Poven Leace và Biện Giang đã liên hệ xin phép Nguyên Phong để dịch ngược sang tiếng Anh với tựa “Journey to the East” với tên Nguyên Phong ở ngoài bìa ở vị trí như một tác giả.
Vậy Nguyên Phong là ai mà độc giả hâm mộ đến như vậy? Ông là John Vu (tên Việt là Vũ Văn Du), giáo sư ngành công nghệ sinh học (Biotechnology) & kỹ nghệ phần mềm (Software Engineering) ở Đại học Carnegie Mellon, Hoa Kỳ.
Các tác phẩm do ông dịch đã được First News xuất bản ở Việt Nam gồm: “Ngọc sáng trong hoa sen”, “Bên rặng Tuyết Sơn”, “Hoa trôi trên sóng nước”, “Minh triết trong đời sống”, “Đường mây qua xứ tuyết”…
Liên kết: Blog của GS. John Vu - Facebook của GS. John Vu (tuy nhiên đã dừng hoạt động do xuất hiện một số cá nhân mạo nhận sử dụng hình ảnh của GS để lừa đảo)
Đọc nhiều nhất
-
Xem phim "Analyze This" của Robert De Niro
Hôm nọ có xem cái phim "Analyze This" của Robert De Niro về xem, thấy vui vui, nay giới thiệu sơ sơ với mọi người... -
Đường Định mệnh (Sự nghiệp/May mắn)
Dẫn nhập: ngày trước cũng tò mò về cái chủ đề chỉ tay, rồi xem tay, rồi tự đọc và tìm hiểu loạn xị cả lên, thực ra kết quả chính là để loè g... -
Hiệu ứng domino và bí quyết tạo lập chuỗi các thói quen tích cực trong cuộc sống
Các hành vi của con người đều có mối liên hệ tương tác lẫn nhau Hãy lấy ví dụ về trường hợp của Jennifer Lee Dukes. Sau hơn 2 thập kỷ, từ k... -
Hà Nội đã mở rộng
Lâu rồi không viết cái gì vì bận bù đầu, giờ cũng chẳng hứng thú lắm nhưng lúc chiều đọc thấy cái tin Quốc Hội đã chấp thuận cho mở rộng Hà ... -
Nguyệt Ánh: Chill-out là thương hiệu của tôi
Chủ đề cuộc gặp lần này xoay quanh dự án Nguyệt Ánh Chill-out của Nguyệt Ánh đang được chú ý trên báo chí, trong các forum âm nhạc và cả ở ... -
Để yêu bất kì người nào, hãy làm những điều sau
Hơn 20 năm trước, nhà tâm lý học Arthur Aron đã thành công trong một thí nghiệm vô tiền khoáng hậu: làm cho 2 người xa lạ yêu nhau. Hè năm n... -
Phim: Buddha – Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca
Bộ phim Buddha về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ đản sanh đến niết bàn. Bộ phim lấy cảm hứng ( hoặc cũng có thể gọi là được chuyển t...
Tham khảo
Liên kết web
Phân loại
Báo chí
(55)
Văn hoá
(33)
Tâm lý
(29)
Tán nhảm
(27)
Công nghệ
(25)
Blog
(17)
Xã hội
(16)
Nghề nghiệp
(15)
Phim
(15)
Quora
(14)
Con người
(13)
Kinh doanh
(13)
Nhạc
(13)
Cuộc sống
(11)
Kỹ năng
(11)
Marketing
(11)
Công cụ
(10)
Lập trình
(10)
Lịch sử
(10)
Sách
(10)
Cặp đôi
(9)
Phát triển
(9)
Thiền
(8)
Tình yêu
(8)
Tản mạn
(7)
Sức khoẻ
(6)
Chính trị
(5)
Giáo dục
(5)
Hạnh phúc
(4)
Kim Dung
(4)
Kiếm hiệp
(4)
Mạng xã hội
(4)
Phát triển cá nhân
(4)
Phần mềm
(4)
Tiền tệ
(4)
Tài chính
(4)
Thực hành
(3)
Tâm linh
(3)
Quản lý công việc
(2)
Quản lý thời gian
(2)
Tiếp thị
(2)
Chăm sóc khách hàng
(1)
Làm việc
(1)
Lãnh đạo cá nhân
(1)
Nguỵ biện
(1)
Quản lý cá nhân
(1)
Thương hiệu
(1)
Tình dục
(1)