Chíp em (05/11/2005)
Hôm nay baby có chụp một vài kiểu ảnh về con mèo Chíp post lên đây chơi, khoe con mèo ngố tý.
Gọi là Chíp em vì có con mèo trước bị bọn hàng xóm đánh bả chết toi cũng tên là Chíp, cùng một mèo mẹ và là lứa trước của Chíp này, thế nên tên là Chíp em.
Nhìn cái giè?
Há, có cái gì hay thế nhỉ?
Đang "phê" đây...
Đang "phê", chụp cái gì? Muốn ăn chưởng hử?
Đang rình con thạch sùng, cấm động đậy không nó chạy mất!!!
Chương 2: Người đạo sĩ thành Benares
Trong khi mọi người trong phái đoàn đang quay phim những đạo sĩ ngồi trên bàn đinh, các đền thờ to lớn, thì giáo sư Spalding thong thả đi dạo ngoài bờ sông. Ông nhìn thấy một đạo sĩ vóc người lực lưỡng đang đi gần đó. Như có một mãnh lực vô hình nào đó thúc đẩy, Spalding muốn vượt lên để nhìn cho rõ, ông bèn rẽ qua một lùm cây rậm rạp, để bắt cho kịp vị đạo sĩ nọ. Vừa đi được vài bước, ông đã giựt mình vì gặp một con rắn hổ mang to lớn chận lối. Rắn hổ là một loại rắn cực độc, hàng năm có hàng ngàn người bị rắn cắn chết, vì ở xứ Ấn giống rắn này có nhiều vô kể, xuất hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng nan, chưa biết phải làm gì thì con rắn đã trườn tới ngẩng cao cổ phun phì phì. Bất ngờ, vị đạo sĩ ở đâu đi đến, ông chẳng nói gì chỉ bước thẳng vào giữa con rắn và giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ dơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ bò vào trong bụi rậm, mất hút trước sự ngạc nhiên của giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm cười thong thả tuyên bố :
- Cái phàm ngã hữu hình, hữu hoại không thể làm việc này mà đó là cái Chân Ngã thâm diệu, cái mà ta gọi là thượng đế ngự trong tôi và muôn loài đã khiến con rắn bỏ đi, khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngã bên ngoài để cho cái Chân Ngã tự biểu lộ, và hành động thì không chuyện gì có thể xảy ra nữa. Bằng cách phát triển toàn vẹn tình thương và bác ái của thượng đế cho nó xuyên qua mình và ban rải cho muôn loài ta sẽ cảm hoá được các thú dữ. Khi ông vừa gặp con rắn, một tư tưởng sợ hãi phát ra, và tôi đã nhận được tư tưởng này; ngoài ra hình như ông có ý muốn gặp tôi ?
Giáo sư Spalding ấp úng :
- Chúng tôi đang suy tầm các hiện tượng huyền bí Á châu – thú thật là tôi đang cảm thấy hoang mang và thất vọng về những điều nhìn thấy ngoài chợ nhưng khi vừa nhìn thấy ông, tôi linh cảm có một sự gì khác thường - - Hình như có một mãnh lực vô hình nào xui khiến.
Đạo sĩ chăm chú nhìn giáo sư rồi ra dấu cho ông này ngồi xuống bên gốc cây cổ thụ gần đó. Đạo sĩ lên tiếng :
- Sáng nay trong cơn thiền định, tôi nhận được một thông điệp về các ông, do đó tôi mới rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các ông muốn tìm hiểu về phép tu Du Già (Yoga)? Đáng lý không bao giờ tôi tiết lộ điều này , nhưng tôi đã nhận thông điệp phải giúp đỡ các ông vậy thì ông cứ hỏi, tôi sẽ cố gắng trả lời tùy theo sự hiểu của mình.
- Xin ông cho chúng tôi được biết về khoa Du Già (Yoga).
Đạo sĩ yên lặng trong chốc lát và lên tiếng :
- Không ai biết rõ pháp môn Du Già (Yoga) bắt đầu từ lúc nào trong lịch sử. Kinh sách Ấn độ giáo (Hinduism) nói rằng thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền triết Gherandạ Nhà hiền triết dạy lại cho các đệ tử của ông nhưng chỉ có Marteyanda là lãnh hội được các tinh túy và phổ biến trong giới trí thức thời đó.
Du Già (Yoga) là một khoa học bao gồm nhiều thứ từ : thiên văn, địa lý, triết học, toán học, v..v.. Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ Yogạ Theo lời sư phụ tôi thì trong thời cực thịnh, Yoga phát triển khắp nơi và lôi cuốn giới hiền triết, trí thức rất đông. Theo thời gian, thời hoàng kim đã qua, nhân loại đã sa vào hố thẳm của sa đoa. vật chất, bị lôi cuốn vào các cám dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá sản tâm linh này, các hiền triết đã hội thảo để tìm một giải pháp. Sau cùng họ đi đến kết luận là cho phép truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng, nhằm đem lại một giải pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy này trích ở chương Yuj (cái ách) gồm các phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ luật khắc khe để đạt mục đích tập trung Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất. Từ đó phần này được truyền bá khắp nơi và tồn tại đến ngày naỵ Vì trích ở chương Yuj, nên nó được gọi là Yogạ Nên nhớ đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga nguyên thuỷ, vậy mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rõ một cách đứng đắn. Đa số đã hiểu sai nên mới có các lối tập luyện kỳ dị, các lối tu khổ hạnh điên rồ, các tư thế lố bịch. Như các ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn đinh, dơ cánh tay lên trời cho đến khi nó khô liệt. Sự luyện tập như thế không có ích gì mà cũng chả mang lại một kết quả gì. Đó là những kẻ làm hoen ố danh dự một môn khoa học như Yogạ Đối với đa số, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để thân thể khoẻ mạnh cường tráng.
Tuy thế, nếu luyện thế đúng cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả tốt cho thể xác. Nhưng các đạo sĩ (Yogi) lại khác, họ biết rằng luyện tập môn này sẽ giúp họ khám phá các năng lực tiềm tàng, mầu nhiệm, giúp họ đạt các phép thần thông biến hoá.
Để luyện ý chí, họ tập trung năng lực vào các việc như hành xác, bắt nó chịu các thử thách cực độ như phơi nắng, dầm sương, ngồi trên than hồng, đứng bằng tay, tréo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm xiên vào da thịt, v..v…
Để chứng minh quyền năng ý chí, họ đem trò này ra biễu diễn cho quần chúng để tìm cách vừa kiếm tiền, vừa hưởng sự kính trọng của đám dân chúng khờ khạo.
Mục đích của Yoga đâu phải làm trò lạ mắt cho người đời kính phục.
Giáo sư Spalding ngắt lời :
- Nhưng ta có nên trách họ không ? Nếu các đạo sĩ chân tu dấu kín các phép tu chân truyền thì sự hiểu lầm làm sao tránh khỏi.
Đạo sĩ mỉm cười thong thả giải thích :
- Một ông vua có khi nào phơi bày ngọc ngà, châu báu cho mọi người coi chơi. Ông ta cất dấu cẩn thận có phải thế chăng? Pháp môn Yoga còn gì quý bằng nên người tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thành tâm muốn học hỏi phải ra công tìm kiếm và đó là phương pháp duy nhất. Một danh sư không cần quảng cáo rầm rộ vì không cần các đệ tử xúm vào xưng tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lý bí truyền khi người đệ tử tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí mật vì cách luyện tập rất nguy hiểm đối với người non kém, chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải trò chơi tầm thường.
Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm việc chủ trị xác thân trước khi chủ trị tinh thần. Lúc đầu ta phải luyện tập bắp thịt và bộ máy hô hấp cho thật thuần thục, sau đó mới đi vào thần kinh, não tuỷ. Nếu tập đúng cách, sức khoẻ sẽ tăng cường, sống lâu và có ý chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập môn, nó đòi hỏi ít nhất từ một đến bốn năm mới đáng kể. Thân thể có cường tráng, tinh thần có dũng mãnh mới có thể tiếp tục bước vào giai đoạn kế tiếp.
Giáo sư Spalding gật gù :
- Như thế môn này khác phương pháp thể dục của người Âu Mỹ thế nào ? Chúng tôi cũng có các cách khiến thân thể khoẻ mạnh.
Đạo sĩ bật cười lớn :
- Người Âu Mỹ biết cách làm thân thể nẩy nở trên bộ da, bắp thịt, làm sao so với lối luyện tập của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong ra đến bên ngoài. Trước hết có bốn cách thức căn bản : Nghỉ ngơi làm xoa dịu thần kinh, cân não. Tĩnh toa. để tập trung ý chí. Điều tức để tẩy uế thân thể, khu trục các chất cặn bã, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Hãy lấy một thí dụ giản dị như việc nghỉ ngơi, hãy quan sát con mèo khi nó nằm yên hay rình bên lỗ chuột. Con mèo biết cách dưỡng sức, bảo tồn sinh lực không hao phí chút nào. Mọi cử động tư thế là cả một sự suy nghĩ, kiểm soát để thoải mái tối đạ Người Âu các ông tưởng mình biết nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết gì cả. Các ông ngồi trên ghế một lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi thì tréo chân, lúc lại dang tay, coi thì thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên miên từ việc này đến việc nọ. Như thế chỉ là hoạt động ầm thầm chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật biết cách dưõong sức bởi vì chúng có bản năng dìu dắt mà bản năng là tiếng nói tự nhiên. Loài người được hướng dẫn bằng lý trí, nhưng thay vì làm chủ lý trí, họ đã không kiểm soát được bộ Óc của họ, nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thể xác thể đều bị ảnh hưởng. Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như không có.
Giáo sư Spalding thở dài thú nhận :
- Đó là điều chúng tôi không bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông có thể nói rõ hơn về khái niệm sơ đẳng môn Hatha Yoga không ?
- Tôi chỉ có thể nói một vài tư thế giúp con người tăng cường sức khoẻ thôi. Có hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có thể tập luyện để tăng cường sinh lực. Các tư thế này có ảnh hưởng đến một số bí huyệt khiến nó tác động lên các cơ quan suy yếu, giúp nó hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn. Khoa học Tây phương đã chứng minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân thể con người còn có hàng triệu các vi ti mạch chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một cơ quan hay bắp thịt ít hoạt động hay suy yếu, thì số lượng các vi ti mạch (capillaries) cũng giảm bớt đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu nhỏ này gia tăng hoạt động, khiến cơ quan phục hồi. Cũng như thế, tập các tư thế Yoga sẽ làm luồng hoa? hầu (Prana) lưu chuyển, kích động các cơ quan từ trong khiến nó hoạt động nhưng tập Yoga làm nó hoạt động đúng với hiệu năng sẵn có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu quả thần diệu hơn. Con người không có lo gì bệnh tật nữa, nếu có bệnh cũng sẽ khỏi hoàn toàn.
Giáo sư Spalding lắc đầu :
- Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp nhận việc tập Yoga chữa được hết bệnh tật.
Đạo sĩ mỉm cười :
- Một thân thể khoẻ mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh được ? Bệnh tật là do sự mất quân bình trong cơ thể. Người Âu Mỹ các ông chỉ biết hoạt động chứ đâu biết nghỉ ngơi, thế đã là lý do gây nên các bệnh thần kinh rồi.
- Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập luyện ra sao ?
Đạo sĩ thong thả giải thích :
- Việc đầu tiên là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất là các ghế bành êm ái rất có hại cho xương sống, con đường vận hà chính của luồng hoa? hầu (Prana), và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, bại xuội, phong thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào đâu, không nghiêng ngả bên nào, giữ cở thể thật thăng bằng, xương sống phải thật thẳng và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ lại thở loạn xạ ngaỵ Đó là vì bộ Óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hãy giữ cho lòng yên tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa quen chủ trị tư tưởng thì hãy nghĩ đến một cái gì đẹp đẽ, mỹ lệ như bông hoa, giòng suối. Đó là bước đầu cho việc nghĩ ngơi.
Giáo sư Spalding buột miệng :
- Như thế đâu có gì khó khăn lắm.
Đạo sĩ bật cười :
- Nghỉ ngơi cần gì phải khó khăn, phiền phức. Khi giữ được xương sống thẳng và thở hít đều đặn, thì luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể và từ đó sẽ điều chỉnh các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách thứ hai là nẳm ngửa trên mặt đất, chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay buông xuôi bên thân mình, mắt nhắm lại để sức nặng toàn thân phân phối đều trên sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường nệm, vì giường mềm mại khiến thân thể lệch lạc không đều. Hãy nằm cho thoải mái, không nên cố gắng thái quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy nghĩ hay mong mỏi điều gì. Tư thế này sẽ xoa dịu bộ thàn kinh khiến nó lấy lại trạng thái quân bình. Nên nhớ nền tảng chính của Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng sức chứ không phải hành xác với các tư thế vặn vẹo kỳ cục.
- Nhưng Yoga có các tư thế đó cơ mà ?
- Vấn đề đứng ngồi với một tư thế đặc biệt trong một khoảng thời gian không quan trọng, nhưng sự tập trung ý chí để thi hành tư thế đó một cách đứng đắn sẽ thúc đẩy các mãnh lực tiềm tàng trong cơ thể con người. Những mãnh lực này là bí mật của thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập phải kèm theo một phương pháp thở (Khí công). Tư thế giúp con người chủ trị giác quan, hơi thở giúp con người mở cửa vào thế giới tinh thần. Nên nhớ tinh thần và thể xác luôn đi song đôi. Không thể có một tinh thần bạc nhược trong một thể xác tráng kiện, hay tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn. Trong giai đoạn cao của Hatha Yoga, thì hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất lâu, thế ngồi của thể xác là điều quan trọng vì nó giúp sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng cường ý chí….
- Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân hình của Yoga như chổng ngược đầu, vắt chân lên cổ.
- Bạn nên nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần kinh rải rác nhiều chỗ trong cơ thể. Mọi tư thế có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất định. Nhờ kích động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng như hoạt động trí não. Các tư thế lạ lùng chỉ dùng để kích động các bí huyệt mà thôi. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài các tư thế còn có phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp thịt thôi. Người Tây phương tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức lực để làm nẩy nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở trong mới điều khiển và chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân lên trời (trồng cây chuối) là lố bịch ư ? Tư thế này dồn máu xuống bộ Óc do trọng lượng của nó. Bình thường máu được đưa lên óc do sức vận động của tim. Sự khác biệt ở chỗ để máu tự nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân não rất có lợi cho ai làm việc nhiều bắng trí óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố gắng để đưa máu lên óc. Nhờ tim được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hành các tư thế này phải cẩn thận, làm chậm rãi, từ từ, có ý thức, giữ vững tư thế trong một thời gian, không nên cố gắng thái quá. Nên nhớ chìa khoá là ở sự nghỉ ngơi thong thả, chứ không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân thể tự động điều hoà trong sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt cơ thể nẩy nở, nhưng thân thể náo động, có hại cho thần kinh.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt nên lời nào, tất cả những gì người đạo sĩ này nói ra đều hợp lý, rất khoa học, không hề có tính chất mê tín dị đoan như ông đã nghe các tu sĩ khác thần thánh hoá. Một người Âu trung bình vốn coi rẻ dân tộc Á châu như loại người chậm tiến, di sản một miền nóng bức, thiếu ăn, chắc phải ngạc nhiên khi thấy từ thời xưa người Ấn đã được giáo dục một cách tập thể dục tối tân, tinh vi, và khoa học như thế.
Đạo sĩ Ấn nhìn ông mỉm cười như đoán được ý nghĩ :
- Yoga là khoa học của vũ trụ, nó không những chỉ áp dụng riêng đối với dân Á châu, mà là khắp nơi. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một chìa khoá bí truyền này. Luật thiên nhiên định rằng trung bình con người thở với số nhịp là 21.600 lần mỗi ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp điệu nói trên và thu ngắn sự sống. Sự hô hấp chậm rãi, kéo dài, đều đặn là tiết kiệm sinh lực và kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có chất kích thích hay hút thuốc làm cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi , tất nhiên làm ta giảm thọ nhanh. Có lẽ ông bạn còn nghi ngờ ? Khoa Yoga ý thức rất rõ sự liên quan chặt chẽ giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này liên hệ mật thiết với hệ thần kinh. Bộ thần kinh là chìa khoá vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ sinh hoạt xác thể, và chính cái sức mạnh vô hình, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể chúng ta mới thực sự điều khiển đời sống. Khi nó rời xác thân thì hơi thở ngừng lại và sự chết đến. Sự kiểm soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng sinh lực vô hình này. Khi sự chủ trị thân xác được thực hiện đến mức cao siêu, con người sẽ kiểm soát được sự vận động các cơ quan trong thân thể như tim, gan ,bao tử, phổi…..
- Làm sao có thể được, tim ngừng đập là chết rồi còn gì ? – Giáo sư Spalding kêu lớn.
- Bạn không tin ư, được bạn hãy để tay lên ngực tôi.
Giáo sư Spalding để tay lên ngực đạo sĩ và tay kia bắt mạch. Một sự rung động lạ lùng xảy ra, nhịp tim đập của đạo sĩ từ từ chậm dần và ngưng hẳn. Đây là một ảo tưởng ? Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ, đúng một phút im lặng, rồi quả tim bỗng bắt đầu đập trở lại. Đạo sĩ mỉm cười giải thích :
- Bây giờ thì ông tin rồi chứ ? Có lẽ ông nghĩ rằng điều này phản khoa học, tôi xin lấy thí dụ sau mà ông có thể kiểm chứng được. Con voi thở chậm hơn con khỉ do đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp loài vật như con rắn chẳng hạn, nó thở rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên cứu kỹ, bạn sẽ thấy sự liên hệ mầu nhiệm giữa hơi thở và sự sống lâu. Một kẻ sống đời êm đềm, sống lâu hơn người có đời sống vội vã, náo nhiệt. Có các giống dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng treo cẳng trên vách đá ngưng thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi xuân đến. Con gấu cũng ngủ suốt mùa đông như thế. Tại sao loài vật làm được mà loài người lại không làm được ? Đó đâu phải phản khoa học hay phản thiên nhiên. Vì các khoa học gia kết luận rằng điều này không thể xảy ra nên không bao giờ họ nhìn thêm điều gì nữa. Đối với người Á châu, bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra và thiên nhiên là ông thầy rất tốt.
- Nhưng như thế đâu có lợi gì, sống lâu thêm vài tháng, vài giờ…
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật trả lời :
- Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giải thích gì thêm lúc này. Bạn có tin rằng nếu luyện tập pháp môn này đến mức cao siêu, ta có thể thắng đoạt tử thần không ? Bạn đồng ý rằng ngưng thở là chết, và nếu ta giữ được hơi thở thì ta bảo tồn sự sống có đúng không?
- Dĩ nhiên là như thế.
- Bạn thân mến, một đạo sư có thể cầm giữ hơi thở không những trong nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều thế kỷ, tức là họ có thể kéo dài sự sống theo ý muốn có đúng không ? Ông bạn đã đồng ý ràng hơi thỏo ở đâu tức là sự sống ở đó kia mà.
- Nhưng làm sao có ai giữ được lâu như thế ?
- Khi bạn lên dãy Hy Mã Lạp Sơn, bạn sẽ gặp những người này và điều này không lạ lùng như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân truyền có thể đem lại nhiều quyền năng bất ngờ, lạ lùng, nhưng đã mấy ai khổ công tập luyện. Trong thời buổi điên đảo hiện nay, con người mê mải trong danh lợi, phù phiếm, các ảo ảnh cuộc đời, làm gì có thì giờ suy nghĩ đến sinh hoạt tâm linh. Đó cũng là lý do những người thực sự mong muốn một trạng thái tâm linh thường ẩn mình nơi hoang vắng, các bậc đó không bao giờ phải đi tìm đồ đệ mà người tìm đạo phải đi kiếm các ngài…
Giáo sư Spalding thắc mắc :
- Nhưng sống lâu trong hoang vắng để làm gì chứ ?
- Hiện giờ đầu óc bạn vẫn còn suy nghĩ như người Âu, nghĩa là lý luận theo một chiều. Muốn học hỏi bạn phải cởi bỏ các thành kiến sẵn có, thì mới mong học hỏi những điều mới lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói . Dĩ nhiên ,các bậc chân sư kéo dài đời sống vì những lý do chính đáng, cao cả chứ đâu tham sống sợ chết như người thường. Trên dẫy tuyết sơn có những vị đã sống cả trăm năm, có vị sống đến cả ngàn năm. Tất cả đều có những sứ mạng riêng nên họ giữ nguyên thể xác. Một đạo sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến thức để có ý kiến. Tôi cho bạn biết trước một điều, bạn sẽ cầm về Anh móng tay của một vị Lạt Ma đã sống hơn bốn trăm năm.
- Liệu ông có thể cho chúng tôi biết làm cách nào để kéo dài đời sống như thế được ?
- Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là luyện tập tất cả các tư thế (asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật thuần thục tuyệt hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự chỉ dẫn của một vị danh sư đã có kinh nghiệm vì sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người tập phải có một nếp sống tinh khiết, trong sạch hoàn toàn. Một ý niệm xấu khi thiền định có thể làm loạn động hơi thở đưa đến tình trạng “tẩu hoa? nhập ma”, điên loạn hoặc chết ngaỵ Phương pháp thứ hai là sử dụng dược chất, pha chế các loại thuốc đặc biệt các loại cây cỏ hiếm hoi, phương pháp này cũng chỉ một thiểu số biết cách bào chế và chỉ truyền lại cho các đệ tử riêng. Phương pháp luyện đơn này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt vì nó có các hiệu quả không thể lường được. Phương pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát mạch, sinh tử huyền quan rất khó giải thích theo khoa học thực nghiệm. Tôi chỉ có thế nói như thế còn tin hay không là quyền của ông. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong, và có một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối cùng của đốt xương sống là sào huyệt của luồng hoa? hầu Kundalinị Sự truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao sinh lực, khiến con người trở nên già nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm soát ta có thể tiết kiệm sinh lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân, y sẽ kiểm soát được luồng hoa? hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám luyện tập đến luồng hoa? hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống khai mở các bí huyệt, các trung tâm quan trọng nằm dọc theo lộ trình. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để luồng hoa? hầu Kundalini chui vào cư ngụ nơi đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải lão hoàn đồng kéo dài sự sống. Sự khó khăn nhất là việc mở được cái nắp đậy trên óc, việc này có khi cần sự trợ giúp của một danh sư sử dụng nội lực giúp y đả thông kinh kỳ bách mạch. Việc này rất khó vì kẻ táo bạo luyện công dễ mất mạng như chơi. Người thành công có thể kéo dài sự sống như ý muốn và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi còn sống, và không hề hư hại…
Giáo sư Spalding im lặng, tât cả những điều vị đạo sĩ tiết lộ, thật lạ lùng, ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Chắc chắn khoa sinh lý học không thể chấp nhận luồng sinh lực vô hình này. Có lẽ nó xuất phát từ trí tưởng tượng của các đạo sĩ chất phác, mê tín chăng ? Có nên tin hay không ?
Như đọc đưọoc tư tưởng của giáo sư, đạo sĩ mỉm cười :
- Tôi biết ông bạn nghi ngờ vì các điều đó hoàn toàn trái với lý thuyết khoa học nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ trụ, so với môn khoa học thực nghiệm thì môn này chỉ là một mãnh vụn.
- Một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến vấn đề tôi vừa trình bày, lúc đó tình trạng hiểu biết của nhân loại đã tiến hoá cao hơn bây giờ, nên có thể hiểu biết một cách chính xác hơn. Bạn nên hiểu luật vũ trụ định rằng khoa học thực nghiệm phải luôn luôn đi song song với sự tiến hoá của nhân loại. Vài trăm năm trước có phải khoa học lúc đó thật là ấu trĩ so với bây giờ hay không ? Nếu đi ngược dòng lịch sử, bạn có thấy rõ mực tiến hoá của khoa học và nhân loại luôn luôn bổ túc cho nhau không ? Thời tiền sử, nói về nguyên tử lực là điều vô lý và có nói cũng chả ai hiểu. Thời Trung Cổ, nếu có gỉang giải về không gian sẽ bị kết án là phù thuỷ. Lịch sử Âu châu đã chứng minh rằng những người thông minh quá đều bị chế nhạo, là điên khùng rồi bị thiêu sống. Đó cũng là lý do các bậc danh sư không hề xuất hiện và các phương pháp tu hành được gìn giữ cẩn thận, bí mật, chỉ những người thành tâm mới được dạy bảo.
- Nhưng có cách nào một người Âu như tôi được truyền dạy các điều này không ?
- Được lắm chứ, nhưng liệu bạn có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa đô hội để ẩn mình nơi hoang vu, tịch mịch tu học không ?
- Điều này…cũng được, nhưng tôi phải thu xếp công việc đã….
- Bạn có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động vui thú phàm thục để hoàn toàn dành cho việc thực hành pháp môn Yoga – không phải vài ngày, vài giờ , mà trọn đời.
- Nhưng chảng lẽ trọn đời chỉ có làm thế thôi…có lẽ khi tôi già đã…
Đạo sĩ bật cười :
- Bạn mến, Yoga không phải một trò tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi hoặc khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam quá vậy ?
Giáo sư Spalding đỏ mặt cãi :
- Nhưng tập Yoga để làm gì ? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm vài năm có ích lợi gì đâu ?
Đạo sĩ nghiêm mặt :
- Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu ? Sống khổ hạnh mà không có ý nghĩa để làm gì ? Phần lớn các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống lâu hơn người khác chưa thấu hiểu được mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân sư chỉ lo sống thêm ít lâu thôi hay sao ? Người đời thường chỉ hiểu một chiều, và đi ngay đến kết luận. Chinh phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con người đến việc chinh phục tinh thần. Giữ cho mình không hành động xấu thì dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ xấu mới khó khăn gấp bội, và đòi hỏi nổ lực phi thường. Đời người quá ngắn, việc tập luyện kiểm soát thể xác đã đòi hỏi nhiều năm, không đủ để tu tập tinh thần. Do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhắm mục đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu tập thêm Raja Yoga nhắm chủ trị tinh thần nữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho Raja Yoga …
- Thế tại sao ta không tập Raja Yoga ngay có hơn không ?
Đạo sĩ lại bật cười :
- Người Âu thật hấp tấp, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập đi trước khi tập chạy chứ. Đốt giai đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thể xác chưa làm chủ nổi thì làm sao đã đòi làm chủ tinh thần…
Giáo sư Spalding nôn nóng :
- Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn có thể chỉ cho tôi thêm về môn này không?
- Này ông bạn, việc gì cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp thầy hay bạn giỏi. Hãy có một lòng khao khát chân lý rồi định mệnh sẽ dẫn dắt bạn.
- Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên trong điện thoại niên giám – tôi làm sao gặp các ngài ?
Đạo sĩ mỉm cười một cách bí mật.
- Hãy vững niềm tin, lòng khao khát cầu đạo có một tư tưởng mạnh mẽ và chắc chắn sẽ được đáp ứng. “Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi sẽ gặp”, bạn quên rồi sao ?
Giáo sư Spalding giật mình, một lần nũua câu nói quen thuộc trong Kinh thánh lại được nhắc nhở bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói gì. Đạo sĩ mỉm cười nói tiếp :
- Người Âu có tính tò mò, cái gì cũng muốn biết. Thực hành mới là quan trọng, chứ biết suông để làm gì ? Phương pháp rèn luyện tinh thần cũng giống như thể xác thôi. Nếu tập lueỵ6n thể thao đều đặn thì bắp thịt sẽ nảy nở, rắn chắc; thì rèn luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ, tham lam, hà tiện, đa nghi… Do đó, họ hành động không tốt với người khác. Đa số cho rằng đó là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn ta có thể sửa đổi mọi tính tình. Nếu một tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang thì sự kiểm soát thích nghi sẽ tạo các đức hạnh cần thiết . Kinh Rig Veda đã ghi rõ : “Kẻ nào quan niệm sự tiến hoá một cách rõ ràng chính xác sẽ ý thức được quyền lợi và hạnh phúc của mình. Muốn trở nên một bậc toàn thiện ta phải có các đức hạnh và can đảm. Người nào muốn cải thiện xã hội phải biết cải thiện mình trước đã. Phải biết quên quyền lợi riêng để chú tâm vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các cơ hội tiếp xúc với mọi người đều tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng sự mọi người chính là phụng sự thượng đế. Những người nhiệt tâm sửa mình phải ý thức quyền năng vô hạn của tư tưởng vì hành động phát sinh từ tư tưởng. Người tìm đạo phải biết kiểm soát tư tưởng của mình và sử dụng chúng một cách hợp lý và bác ái. Kiểm soát tư tưởng là mục đích của môn Raja Yogạ Trở ngại lớn nhất của những người luyện tâm, rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người công kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người. Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược lại, phải tìm thấy điều thiện ở tất cả mọi người và nhìn thấy mọi sự đều có cái lý riêng của nó. Có thế họ mới giúp mình và người khác được . Trở ngại thứ hai là sự nông nổi, làm điều này chưa xong, đã nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đã mong thấy kết quả và nếu kết quả chưa như ý muốn liền bỏ điều theo đuổi, để nhảy sang một điều khác. Rốt cuộc không có điều gì xong cả. Thái độ này không thể chấp nhận được. Sự bền tâm kiên chí là điều cần thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người ngắn ngủi không ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu trong một kiếp, do đó, việc tu hành cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ sẽ ý thức các sự kiện vĩ đại của sự sống vô cùng và rời bỏ cái bản ngã để hoà mình vào giòng tiến hoá của vũ trụ, hoà nhập với Chân Ngã bất diệt.
- Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị thánh ?
- Này ông bạn, đừng nên kết luận vội vàng. Con đường dẫn đến quả vị tiên thánh đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lý và không đường nào hơn đường nào. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà bạn phải ghi nhớ mãi mãi. Không một con đường nào hơn đường nào dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga hay là môn gì chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, tôn giáo kia mới tốt? Không một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt hơn cả hãy tự biết mình. Thay vì tìm một chân lý tuyệt đối, hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình vì chân lý để sống chứ không phải để dạy.
Giáo sư Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời nói của đạo sĩ như có một sức mạnh vang dội trong lòng ông. Các thành kiến từ trước bỗng tan biến hết và ông cảm thấy xúc động vô cùng.
Đạo sĩ mỉm cười :
- Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ có các kẻ còn u mê trong bản ngã mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Khi họ đeo đầy mình những chức tước, thì làm sao họ giải thoát được ? Thượng đế ban cho ta trí thông minh để nhận xét thì ta phải biết phân biệt chứ. Hãy nhìn thành Benares với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe mình gần thượng đế nhất. Tại sao suốt hai năm nay phái đoàn các ông đã đi khắp nơi, thăm viếng mọi chỗ mà vẫn không thoa? mãn ? Phải chăng vì sự hiểu biết phân biệt của các ông đã cao, không chấp nhận sự mê tín, mù quáng nữa. Kinh Gita nói rõ, “Thầy nào, trò nấy. Một tu sĩ chân chính không có đệ tử bất hảo, và một đệ tử thông minh không tìm thầy bất lương”. Luật thiên nhiên đã dạy “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng suốt đâu thể đi theo kẻ u mê… Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp, đễ tự hào về các thành quả này. Như thế là phô trương bản ngã, kiêu căng, ngã mạn làm sao còn giải thoát được. Bạn hãy sử dụng lý trí và trực giác để phân biệt những người này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lý thì chắc chắn điều mong ước sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đã quá đủ, đã đến lúc tôi phải trở về am thất.
- Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông…tôi chưa biết tên ông.
- Hãy gọi tôi là Bramananda.
Giáo sư Spalding yên lặng nhìn vị đạo sĩ khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng chiều từ từ rơi xuống trên sông Hằng.
MỤC LỤC:
- Lời nói đầu
- Chương 1: Một người Ấn lạ kỳ
- Chương 2: Người đạo sĩ thành Benares
- Chương 3: Khoa Học Thực Nghiệm Và Khoa Học Chiêm Tinh Bí Truyền
- Chương 4: Trên Đường Thiên Lý
- Chương 5: Thành Phố Thiêng Liêng
- Chương 6: Những Sự Kiện Huyền Bí
- Chương 7: Vị Đạo Sĩ Có Thể Chữa Mọi Thứ Bệnh
- Chương 8: Đời Sống Siêu Nhân Loại
- Chương 9: Cõi Vô Hình
- Chương 10: Hành trình về Phương Đông
Gà làng không bao giờ bị cúm còn gà lậu thì đưa về dưới xuôi hết
Thật đúng là liều mạng theo kiểu thiếu hiểu biết. Cái này người ta gọi là "ngu thì chết chứ bệnh tật gì".
Mời quý bạn đọc chơi cái bài này trên VietNamNet
Lên Lạng Sơn xem dân "thuỷ chung" với gà làng - VietNamNet - 5/11
"Cán bộ thú y báo tin dịch rồi; đài báo cũng nói. Nhưng chúng tôi mua bán toàn gà khoẻ. Gà làng lấy quanh năm rồi, không có cúm, không sợ cúm đâu!".
"Tất cả gà nhập lậu từ Trung Quốc đều được đưa về dưới xuôi hết...Thỉnh thoảng mới bị trộn vào hàng trong chợ"
Việt Nam và TAMIFLU
Roche hỗ trợ Hàn quốc sản xuất thuốc Tamiflu - VietNamNet
Phương pháp mới tăng hiệu quả của thuốc Tamiflu - VnExpress
Tamiflu do VN sản xuất sẽ được cấp miễn phí
- VnExpress
Thuốc điều trị nhiều thể bệnh cúm - VietNamNet
Chương 1: Một người Ấn lạ kỳ
Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng , phái đoàn vẫn không thoa? mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không ? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời :
- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”
Giáo sư Spalding ngạc nhiên :
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Người Ấn mỉm cười :
- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư Spalding mất bình tĩnh :
- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà ?
Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh :
- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”
Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm ? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn nghiêm nghị trả lời :
- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.
Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding :
- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư Spalding thắc mắc :
- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?
- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt : “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”
- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ ?
Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu :
- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.
Giáo sư Spalding cãi :
- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật cười trả lời :
- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao ? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng ?
Người Ấn nghiêm nghị :
- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng ?
Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không ? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao ? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn ?
- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu ?
Người Ấn mỉm cười :
- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại ? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không ? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi :
- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không ?
- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố Benares.
MỤC LỤC:
- Lời nói đầu
- Chương 1: Một người Ấn lạ kỳ
- Chương 2: Người đạo sĩ thành Benares
- Chương 3: Khoa Học Thực Nghiệm Và Khoa Học Chiêm Tinh Bí Truyền
- Chương 4: Trên Đường Thiên Lý
- Chương 5: Thành Phố Thiêng Liêng
- Chương 6: Những Sự Kiện Huyền Bí
- Chương 7: Vị Đạo Sĩ Có Thể Chữa Mọi Thứ Bệnh
- Chương 8: Đời Sống Siêu Nhân Loại
- Chương 9: Cõi Vô Hình
- Chương 10: Hành trình về Phương Đông
Gà nó không biết nói nên người cứ đổ cho nó là bị bệnh
Cuối chương trình, có đoạn về một bệnh nhân đã từng mắc bệnh với virus H5N1 được cứu sống tên là Sỹ Tuân quay trở lại khám, và được bác sỹ khẳng định là một trường hợp "cực kỳ may mắn". Chia tay với vị bệnh nhân này, vị bác sỹ quay trở lại chăm sóc 4 người bệnh, mà trong 4 người này lại có 1 người là bác sỹ, ông ta bị nhiễm bệnh sau khi chăm sóc cho một bệnh nhân bị cúm gà với H5N1. Khặc, con gà đâu biết nói mà! :(
Trước khi viết cái post này, đọc thấy gà vịt vẫn chạy vào Sài Gòn ầm ầm, thế nên nhớ ra vào đây post một phát. Chuẩn bị lúc này có lẽ là hơi chậm rồi. Lúc nào thì nổ ra đây?
Gia cầm sống vào TP HCM bằng cả xe buýt - VnExpress
Từ một điểm buôn bán tự phát (nằm trên quốc lộ 1A, ấp 1, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, Long An), gia cầm, thủy cầm sống không rõ nguồn gốc được vận chuyển vào TP HCM bằng tất cả các phương tiện: xe gắn máy, ôtô khách và thậm chí bằng xe buýt.
Gia cầm vẫn bán công khai ở cửa ngõ TP HCM
Hà Nội : Một bệnh nhân nghi nhiễm H5N1 tử vong - Người Lao Động điện tử
Tăng dự phòng ngân sách để đối phó với dịch cúm - VnExpress
Hôm trước có một đ/c vào đây comment là khi nào trong 100 thằng chết có 50 thằng được khẳng định là do birdflu thì lúc đó dân Việt nam mới sợ và không bán gà qué nhặng lên. Có lẽ thế thật, cần phải chết đồng loạt vài chục chú ngu ăn thịt gà tiết canh thì lúc đó mới tin là có cúm gia cầm và may ra lúc đó mới sợ. Đến thua "lòng dũng cảm" của "con Rồng cháu Tiên". :(
Việt Nam có thể là điểm đầu tiên của đại dịch cúm
"Chúng ta bất lực trong việc ngăn chặn cúm từ chim di cư, nhưng việc ngăn chặn H5N1 lây lan từ gia cầm là có thể làm được. Một ổ dịch nhỏ xuất hiện nếu biết dập tắt ngay thì đại dịch sẽ không xảy ra, tuy nhiên với tình trạng hiện nay thì điều này thật khó khăn. Tình hình vận chuyển gia cầm từ vùng dịch sang vùng không có dịch, buôn bán, sử dụng gia cầm không rõ nguồn gốc, ăn tiết canh... vẫn phổ biến như hồi chưa có dịch" - ông Huấn lo lắng - "Bộ Y tế đã đề nghị Chính phủ cấm nhập khẩu chim cảnh, vận chuyển buôn bán, sử dụng gia cầm bệnh, nhưng ai thực hiện lệnh cấm này nếu không phải là người dân? Khi họ chưa ý thức được nguy cơ và tự giác thực hiện thì cơ quan quản lý cũng khó tạo ra sự thay đổi"
Cuối cùng thì giới chức ở VN cũng đã nhận ra điều này (có lẽ nhận ra điều này lâu rồi nhưng bây giờ mới chịu công bố rộng rãi). Vậy làm gì đây? Bây giờ 1 liều TAMIFLU ở mấy cửa hàng thuốc trước Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội đã là 1.000.000 VNĐ rồi, thế mà còn chẳng có để mà mua. Chắc ngồi đợi dịch xảy ra và xem mình có năm trong danh sách "không may" không đấy nhỉ, đợi vài hôm nữa xem còn tin gì nữa.
Lời nói đầu
Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó.
Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đạ Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.
Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần”. Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến.
Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách “Life and teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn.
Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.
MỤC LỤC:
- Lời nói đầu
- Chương 1: Một người Ấn lạ kỳ
- Chương 2: Người đạo sĩ thành Benares
- Chương 3: Khoa Học Thực Nghiệm Và Khoa Học Chiêm Tinh Bí Truyền
- Chương 4: Trên Đường Thiên Lý
- Chương 5: Thành Phố Thiêng Liêng
- Chương 6: Những Sự Kiện Huyền Bí
- Chương 7: Vị Đạo Sĩ Có Thể Chữa Mọi Thứ Bệnh
- Chương 8: Đời Sống Siêu Nhân Loại
- Chương 9: Cõi Vô Hình
- Chương 10: Hành trình về Phương Đông
Chuyện Game Online - Mới thấy "bộ máy công chức của Việt Nam thật tuyệt vời"
Lạ thật, việc ông bộ không theo kịp thì quay sang "giở trò", đáng ra ông phải "giở trò" với các "cán bộ đầy năng lực" của mình mới đúng, vì có đám cán bộ này nên bộ mới "không theo kịp sự phát triển" và vẫn "gìn giữ bản sắc dân tộc" là quản được đến đâu thì mở ra đến đó.
Nghĩ mà chán, sắp hết nửa thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tư duy này, có lẽ cứ thế này đến hết thập kỷ này, kinh tế Việt Nam "thành rồng thành phượng" mất. Ngán.
- Sự kiện VinaGame - VietNamNet
- Vinagame không được nhập game mới và mở rộng người dùng - Tuổi Trẻ Online
- “Xử” Võ lâm truyền kỳ về giấy phép OSP là không đúng! - Người Lao Động điện tử
- Sở BCVT TPHCM đã hiểu sai Nghị định 55/CP - Người Lao Động điện tử
BIRDFLU: Trường hợp nhiễm cúm gia cầm thứ 20 ở Thái Lan, còn VN thì "cấm bán tiết canh"
Nay xin post ra đây hầu quý bạn ghé thăm:
Cấm nuôi, bán gia cầm sống tại thành phố, thị xã - VNExpress (1/11)
Chiều 1/11, Thủ tướng đã ký công điện yêu cầu thực hiện ngay việc cấm nuôi, buôn bán gia cầm sống tại các thành phố, thị xã, thị trấn. Bộ Nông nghiệp, Bộ Y tế hoàn thiện ngay kế hoạch hành động khẩn cấp phòng chống dịch, trình Thủ tướng phê duyệt trước ngày 15/11
Thái Lan: trường hợp nhiễm cúm gia cầm thứ 20 - Tuổi Trẻ (1/11)
Hôm nay Thái Lan đã xác nhận trường hợp thứ 20 (tính từ năm 2003) tại nước này bị nhiễm cúm gia cầm. Người bị nhiễm bệnh là một phụ nữ 50 tuổi sống tại ngoại ô thủ đô Bangkok. Theo ông Thawat Suntarajarn, trưởng Ban kiểm soát các căn bệnh truyền nhiễm, người phụ nữ này đã bị nhiễm bệnh một ngày sau vệ sinh một nông trại gia cầm bị nhiễm bệnh
Hà Nội: Cấm bán tiết canh gia cầm, thuỷ cầm - VietNamNet (1/11)
Sở Y tế Hà Nội vừa ra văn bản nghiêm cấm các cơ sở kinh doanh thực phẩm và thức ăn đường phố bán tiết canh chế biến từ gia cầm, thuỷ cầm. Trong văn bản Về việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phòng chống dịch cúm gia cầm gửi Ban chỉ đạo Vệ sinh an toàn thực phẩm các quận, huyện ngày 28/10, Sở Y tế đồng thời khuyến cáo người kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng không sử dụng tiết canh được chế biến từ gia súc nhằm hạn chế nguy cơ ngộ độc thực phẩm.
Tiết canh bị cấm vẫn sẵn sàng phục vụ - VietNamNet (27/10)
Tiết canh ngan, vịt vẫn được bày bán vô tư trong nhiều quán ăn Hà Nội, dù Bộ NN&PTNN đã có công điện khuyến cáo người tiêu dùng không sử dụng. Dạo quanh các cửa hàng kinh doanh mặt hàng này, vẫn thấy nhộn nhịp kẻ bán người mua món khoái khẩu này. Cửa hàng Ngan Khoa (77 Hai Bà Trưng) không bày bán tiết canh, nhưng vẫn đon đả bưng ra khi khách có nhu cầu.
Cúm gia cầm, thuốc TAMIFLU và chuẩn bị đối với với đại dịch tại Việt nam
Đọc một loạt báo chí trong nước thấy hình như các đơn vị thông tấn báo chí của chúng ta vẫn đang che dấu hay bưng bít thông tin về hiểm hoạ cúm gia cầm thì phải. Cũng trong chương trình của VNN, phóng viên thử đi mua thuốc TAMIFLU thì không được, thậm chí đã có rất nhiều đơn đặt hàng của nhiều người rồi nhưng vẫn chưa có thuốc để cung cấp, và nghe phỏng vấn các hiệu thuốc thì TAMIFLU được cung cấp rất hạn chế, mỗi cửa hàng chỉ có 3 hộp/tuần và khi sử dụng thì phải có đơn kê của bác sỹ.
Theo thống kê sơ bộ, lượng thuốc đang dự trữ ở Việt Nam chỉ đủ cung cấp cho chưa đến 1% dân số của VN khi đại dịch diễn ra (khoảng 800.000 người), theo dự đoán khi có đại dịch thì sẽ khoảng 10% dân số có khả năng mắc bệnh (khoảng 8.2 triệu người). Hiện tại, theo thông tin của các đơn vị báo chí thì có khoảng 60 người đã chết vì cúm gia cầm ở Đông Nam Á và trong đó đa phần là ở Việt Nam (khoảng 40 người). Mặt khác, khi xem báo Thanh Niên và truyền hình VN thì thấy dân Việt vẫn vô tư gọi nhau chén thịt gà và thậm chí cả tiết canh ngan/vịt, và phát biểu rất hồn nhiên: làm gì có cúm gia cầm, chắc là lừa đấy, ... thật hết biết.
Câu khẳng định thì đã có: "Dịch cúm sẽ xảy ra" và câu hỏi là xảy ra nhanh ở mức độ nào ở VN, và VN sẽ thiệt hại về người ra sao, 100.000-200.000 người hay đến con số 1-2 triệu người?
Nhân tiện về vấn đề này, xin liệt kê ra đây một số danh sách các bài báo về cúm gia cầm trên các phương tiện thông tin báo chí:
- Úc tổ chức hội thảo về cúm gia cầm - BBC
- Châu Á thêm quan ngại về cúm gia cầm - BBC
- Đài Loan 'qua mặt' tác quyền - BBC
- Lại bùng nổ cúm gà tại Trung Quốc - BBC
- Việt Nam chuẩn bị đối phó với cúm gà - BBC
- Tử vong vì cúm gà tăng tại Indonesia - BBC
- Việt Nam sắp sản xuất Tamiflu - BBC
- Cúm gia cầm lây lan ở nhiều châu lục - BBC
- Điều trị miễn phí bệnh cúm gia cầm - BBC
Đọc nhiều nhất
-
Giới thiệu một chút về bản thân
Tên Quỳnh , họ Nguyễn . Chính vì thế mọi người vẫn gọi là Quỳnh Nguyễn , gọi mãi thành quen, đôi khi có người thấy viết là Quynh Nguyen, lại... -
Nguyệt Ánh: Chill-out là thương hiệu của tôi
Chủ đề cuộc gặp lần này xoay quanh dự án Nguyệt Ánh Chill-out của Nguyệt Ánh đang được chú ý trên báo chí, trong các forum âm nhạc và cả ở ... -
Đường Định mệnh (Sự nghiệp/May mắn)
Dẫn nhập: ngày trước cũng tò mò về cái chủ đề chỉ tay, rồi xem tay, rồi tự đọc và tìm hiểu loạn xị cả lên, thực ra kết quả chính là để loè g... -
Nếu không có thực lực, bạn chỉ là kẻ ăn bám
Dựa vào núi núi đổ, dựa vào người người chạy, chỉ có tự dựa vào chính mình mới là đáng tin cậy nhất. Ba mẹ có là ông nọ bà kia đi chăng nữa... -
Cái ông "mấu" kia đã bị xử lý... ;-)
Sáng dậy muộn, người mệt đờ đẫn, không hiểu ốm hay sao ý. Đến công ty thì việc đầu tiên là vác máy tính ra làm cốc cafe cho tỉnh đã, rồi... -
Phim: Buddha – Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca
Bộ phim Buddha về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ đản sanh đến niết bàn. Bộ phim lấy cảm hứng ( hoặc cũng có thể gọi là được chuyển t... -
Hiệu ứng domino và bí quyết tạo lập chuỗi các thói quen tích cực trong cuộc sống
Các hành vi của con người đều có mối liên hệ tương tác lẫn nhau Hãy lấy ví dụ về trường hợp của Jennifer Lee Dukes. Sau hơn 2 thập kỷ, từ k...
Tham khảo
Liên kết web
Phân loại
Báo chí
(55)
Văn hoá
(33)
Tâm lý
(28)
Tán nhảm
(27)
Công nghệ
(25)
Blog
(17)
Xã hội
(16)
Nghề nghiệp
(15)
Phim
(15)
Quora
(14)
Con người
(13)
Kinh doanh
(13)
Nhạc
(13)
Cuộc sống
(11)
Marketing
(11)
Công cụ
(10)
Kỹ năng
(10)
Lập trình
(10)
Lịch sử
(10)
Sách
(10)
Phát triển
(9)
Cặp đôi
(8)
Thiền
(7)
Tình yêu
(7)
Tản mạn
(7)
Sức khoẻ
(6)
Chính trị
(5)
Giáo dục
(5)
Hạnh phúc
(4)
Kim Dung
(4)
Kiếm hiệp
(4)
Mạng xã hội
(4)
Phần mềm
(4)
Tiền tệ
(4)
Tài chính
(4)
Phát triển cá nhân
(3)
Tâm linh
(3)
Quản lý công việc
(2)
Quản lý thời gian
(2)
Thực hành
(2)
Tiếp thị
(2)
Chăm sóc khách hàng
(1)
Làm việc
(1)
Lãnh đạo cá nhân
(1)
Nguỵ biện
(1)
Quản lý cá nhân
(1)
Thương hiệu
(1)